Năm Ất Mão (1795), sau ki quân Trần Quang
Diệu rút về Phú Xuân thì Nguyễn Phúc Ánh cũng rút quân về Gia Ðịnh lo tích trữ
thêm lương thực, chiêu mộ thêm binh sĩ, quyết chí diệt Tây Sơn.
Tháng 3 năm Ðinh Tỵ (1797), mùa gió nam
bắt đầu, Nguyễn Phúc Ánh để Tôn Thất Hội ở lại giữ Gia Ðịnh, cùng Hoàng tử Cảnh
đem binh thuyền ra đánh Quy Nhơn. Bị thủy quân Quy Nhơn đánh lui, Nguyễn Phúc
Ánh theo chiều gió ra đánh Quảng Nam.
Trấn thủ Quảng Nam là Phạm Văn Thọ, người
Bồng Sơn, đi coi việc lương ở ngoài. Thành bị vây đánh. Người vợ là Lâm Thị
Bạch, người An Nhơn, đóng cửa thành cố thủ. Ðịch đánh hăng quá, phu nhân liệu
không giữ lâu nổi, bèn cắt tay lấy máu viết thư xin cứu viện với Tổng binh trấn
Quảng Nghĩa là Nguyễn Văn Lộc. Binh Quảng Nghĩa ra cứu, quân Nguyễn Phúc Ánh
phải lui. Phạm Văn Thọ trở về giữ thành. Nguyễn Văn Lộc trở về giữ Quảng Nghĩa.
Nguyễn Phúc Ánh đánh Quảng Nam ngót hai
tháng, quân lương hết phải rút trở về Gia Ðịnh.
Nguyễn Phúc Ánh về Gia Ðịnh, một mặt sai
Nguyễn Văn Thụy sang Xiêm La xin Vua Xiêm đem quân theo đường Vạn Tường sang
đánh lấy Thuận Hóa hoặc Nghệ An, một mặt sai Ngô Nhân Tịnh sang sứ nhà Thanh để
cầu phong làm Quốc vương thay Nguyễn Quang Toản. Tháng 3 năm Kỷ Mùi
(1799), Nguyễn Phúc Ánh cử đại binh ra đánh Quy Nhơn.
Quy Nhơn trước kia, quan văn cũng như võ
tướng phần nhiều đều là người địa phương. Tình nghĩa giữa quân và dân rất mặn
nồng khăng khít. Từ ngày cháu cướp quyền bác, đưa người Quy Nhơn đi phục vụ ở
nơi khác và đưa người nơi khác vào cai trị người Quy Nhơn, thì quân và dân trở
thành dầu và nước. Kẻ có quyền không có đức lại gặp được hôn quân, liền hùa gió
bẻ bắp, nhân dân phải chịu nhiều nỗi cay đắng, những mong có cuộc thay đổi. Do
đó địa phương có câu:
Lạy trời cho chóng gió nồm
Cho thuyền chúa Nguyễn thuận buồm
thẳng ra.
Vì vậy khi Nguyễn Phúc Ánh ra Quy Nhơn
thì nhân dân ngấm ngầm ủng hộ.
Nguyễn Phúc Ánh vào cửa Thị Nại, tháng 4
năm Kỷ Mùi sai Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Ðức đem quân lên bộ đóng ở Hàm Long thuộc
Tuy Phước, và Tống Viết Phước ra đóng ở núi Cung Quăng thuộc Bồng Sơn .
Hàm Long là một độc sơn không cao không
lớn, nằm trong địa phận thôn Thuận Nghi. Hình giống như đầu rồng, miệng há rộng.
Con sông Hà Thanh chạy từ Nam ra Bắc, qua khỏi núi thì quành xuống đông để ra
đầm Thị Nại, tạo thành cánh tay ôm lấy chân núi ở mặt bắc và mặt tây. Núi còn
một tên nữa là Cần Úc sơn. Núi tuy thấp bé, song có thế dụng binh.
Cung Quăng ở phía đông bắc Bồng Sơn. Mặt
bắc của núi thuộc về Ðức Phổ, Quảng Nghĩa. Thế núi trập trùng, cây cỏ sầm uất.
Dính liền với núi Sa Lung ở phía tây và núi Thạch Tân ở phía đông. Ba ngọn núi
này hợp nhau thành một bức tường thành thiên nhiên che chở cho thành Quy Nhơn ở
mặt bắc.
Những nơi hiểm yếu này cũng như các nơi
khác trong vùng đất Quy Nhơn đều do Lê Chất và một số người chán ghét Cảnh Thịnh
chỉ dẫn cho Nguyễn Phúc Ánh.
Chiếm cứ Hàm Long và Cung Quăng rồi, Võ
Tánh và Tống Viết Phước lo việc bố phòng. Tống lo chận binh cứu viện ở Phú Xuân.
Võ chờ thủy binh của Nguyễn Phúc Ánh kéo đánh mặt trước thành Quy Nhơn, sẽ kéo
quân đánh bọc hậu.
Võ Ðình Tú đi kinh lý Phú Yên được tin
quân Nguyễn Phúc Ánh đổ bộ Quy Nhơn, vội kéo quân về, đi thẳng lên Cần Úc đánh
quân Võ Tánh.
Hai bên kịch chiến suốt hai ngày đêm, Võ
Tánh trá bại, Nguyễn Huỳnh Ðức phục binh trên núi với cung tên và súng đạn. Võ
Ðình Tú bị mắc mưu giục quân đuổi theo. Tên trên núi bắn xuống như mưa, chen vào
những tiếng súng nổ. Quân Tây Sơn bị trúng tên lớp chết lớp bỏ chạy. Ðình Tú tả
xung hữu đột, cây thiết côn gạt phăng bao nhiều mũi tên bắn vun vút vào người và
ngựa. Nhưng không thể tránh khỏi đạn đồng. Bị thương nặng, máu chảy dầm mình,
đuối sức ngã gục trên lưng ngựa. Ngựa hí một tiếng dài, nhảy ra khỏi trận tuyến,
chạy một mạch về Phú Phong[89]. Ðến nhà thì ngựa ngã lăn ra chết. Võ Ðình Tú
cũng đã lạnh hết chân tay.
Ðó là vào cuối tháng 4 năm Kỷ Mùi
(1799).
Ðầu tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh kéo quân lên
vây thành Quy Nhơn, trấn thủ Quy Nhơn lúc bấy giờ là Lê Văn Thanh[90] đem quân
ra chống cự.
Ở Hàm Long, Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Ðức
kéo binh đánh đồn Trấp Xá ở Quán Chẹt. Tướng giữ đồn là Trương Tấn Túy chống cự
không nổi, bỏ đồn chạy về Quy Nhơn. Quân nhà Nguyễn kéo đánh tiếp đồn Tháp Thi
Thiện tục gọi là tháp Bánh Ít. Tướng giữ đồn là Lê Văn Thiệt bị trúng đạn chết
trên bành voi. Quân sĩ đều tan rã. Quân Võ Tánh thừa thắng kéo ra Ngạc Ðầm tục
gọi là Bàu Sấu ở thôn Thiết Trụ thuộc An Nhơn.
Bàu Sấu không rộng lắm nhưng rất sâu,
nắng mấy cũng không cạn. Phía tây là thôn Ðại Bình, phía đông là thôn Thiết
Tràng. Bốn mùa người ở phía tây, phía đông qua lại với nhau phải đi đò. Bên mé
bàu phía đông có một dãy núi đất chạy dài ra phía bắc, tiếp nối với những gò
đống, giống hình rồng uốn khúc, gọi là Kim Ðồng. Trên núi có bảy đồn lính đóng
để canh giữ mặt sau thành Quy Nhơn.
Bảy đồn này có thế núi và nước, lại rất
kiên cố. Quân Võ Tánh trào lên lớp nào bị quân trên đồn bắn chết lớp nấy, không
sao tiến nổi, đành phải đóng lại dưới chân núi, phía tây bàu. Nguyễn Phúc Ánh
đánh thành mấy ngày liền, nhưng không hạ nổi, Lê Văn Thành chống cự đã đuối sức,
phải đóng cửa thành cố thủ để đợi quân cứu viện Phú Xuân. Nguyễn Phúc Ánh bao
vây thành, và truyền Võ Tánh giữ vững mặt phía tây, Tống Viết Phước giữ vững mặt
phía bắc, đề phòng binh Phú Xuân.
Binh Phú Xuân do Trần Quang Diệu và Võ
Văn Dũng chỉ huy, kéo vào đến Quảng Nghĩa thì bị binh Tống Viết Phước chận lại,
phải dừng lại Thạch Tân. Thừa lúc trời tối, Võ Văn Dũng lén đem quân theo đường
Chung Xá, mưu đánh úp quân Tống Viết Phước. Chẳng ngờ khắp nơi đều có quân đóng
giữ và canh phòng cẩn mật, binh Võ Văn Dũng bị thua to. May nhờ Trần Quang Diệu
cứu ứng kịp, Võ Văn Dũng mới thoát nạn. Nhưng quân Trần Quang Diệu không sao
đánh thủng quân Tống Viết Phước, nên không cứu được thành Quy Nhơn.
Lê Văn Thanh đợi không thấy viện binh mà
trong thành lương thực lại hết, bất đắc dĩ phải mở thành cùng Thượng thư Nguyễn
Văn Phác, thiếu úy Trương Tấn Túy ra hàng. Nguyễn Phúc Ánh vào thành Quy Nhơn,
chém chết tướng tá Tây Sơn, và đổi tên là thành Bình Ðịnh.
Nguyễn Quang Huy ở Phú Yên nghe tin Quy
Nhơn thất thủ, kinh hãi nói:
- Quy Nhơn mất rồi, nếu ở Diên Khánh đánh
ra ở ngoài đánh vào Phú Yên lưỡng đầu thọ địch, không tài nào chống nổi.
Bèn bỏ Phú Yên kéo quân ra cứu Quy Nhơn.
Nguyễn Quang Huy đánh rất hăng. Một ngày
đánh bại 25 viên tướng của Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Phúc Ánh lấy làm lạ, lên
thành đứng xem. Quang Huy trông thấy dùng cung Thiết Thai[91] bắn trúng cánh tay
trái. Nguyễn Phúc Ánh té nhào bất tỉnh. Tướng sĩ đưa vào dinh cứu chữa. Tỉnh
dậy, sai rút hết quân vào thành tạm nghỉ.
Quang Huy đóng quân trước thành.
Nguyễn Văn Thành ở Diên Khánh được tin
Phú Yên bỏ trống liền đem quân ra chiếm đóng, rồi sẵn đường kéo thẳng ra Quy
Nhơn.
Quân Nguyễn Văn Thành và quân Nguyễn
Quang Huy giao chiến. Nguyễn Phúc Ánh sai Nguyễn Huỳnh Ðức mở cửa thành kéo quân
ra tiếp ứng. Quân Quang Huy bị đánh hai mặt, hết sức chống đỡ nhưng quân nhà
Nguyễn quá đông, giết lớp này lớp khác tràn tới. Sức đuối dần, quân Quang Huy bị
ta rã. Quang Huy một người một ngựa chạy vào núi Dương An.
Núi Dương An cũng gọi là Phước An, nằm
phía nam thành Quy Nhơn trong vùng Vân Canh, hình dáng kỳ đặc kiêu hùng, chu vi
hơn trăm dặm, đỉnh cao chất ngất, lúc nào cũng có mây vần. Cây cối rậm rạp, phần
nhiều là danh mộc sống lâu trên trăm năm và lớn từ một ôm trở lên. Sườn núi dốc
và đá xanh chập chồng. Dù leo núi giỏi đến đâu cũng khó leo thấu đỉnh.
Chung quanh Dương An có nhiều núi cao nối
liền nhau thành dãy Nam Sơn chạy dài từ dãy Tây Sơn vùng An Khê xuống đến biển
Thị Nại.
Ðịa thế rất hùng hiểm.
Nguyễn Quang Huy vào Dương An chiêu mộ
hào kiệt chờ dịp phục thù.
Còn Nguyễn Phúc Ánh bị vết tên quá nặng,
phải đem tướng sĩ trở vào Gia Ðịnh, giao thành Quy Nhơn vừa đổi tên Bình Ðịnh
cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ. Tống Viết Phước vẫn canh giữ Cung Quăng
để phòng ngự mặt bắc.
|