Trần Quang Diệu Chiếm B́nh Định

Nguyễn Phúc Ánh Chiếm Phú Xuân

 

Được tin Quy Nhơn thất thủ, Cảnh Thịnh định thân chinh. Nhưng gặp tang Ngọc Hân, nên tạm hoăn, truyền Nguyễn Văn Giáp vào giữ sông Trà Khúc ở Quảng Nghĩa và gọi Trần Quang Diệu cùng Vơ Văn Dũng ra giữ Quảng Nam (Kỷ mùi 1799).

Ngọc  Hân Công Chúa vào Phú Xuân năm bính Ngọ (1786) và được phong Bắc Cung Hoàng Hậu năm Kỷ Dậu (1789). Năm Nhâm Tư (1792), Vua Quang Trung băng, Hoàng Hậu có một bài văn Tế và một bài Văn, lời tha thiết năo nùng.

Hoàng Hậu sống cùng Vua Quang Trung được bảy năm (1786-1792), sanh hạ được hai con, một trai một gái.

Vua Cảnh Thịnh ban tên thụy là Như Ư Trang Thân Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Phan Huy Ích phụng soạn năm bài văn tế bằng chữ Nôm:

- Một bài cho Vua Cảnh Thịnh đứng tế.

- Một bài cho các công chúa con Bùi Thái Hậu đứng tế.

- Một bài cho bà Phù Ninh Từ Cung, thân sinh Vũ Hoàng Hậu, đứng tế.

- Một bài cho các tôn thất nhà Lê đứng tế.

- Một bài cho bà con bên Ngoại Vũ Hoàng Hậu đứng tế.

Có nhiều câu, nghe qua là biết ngay được người được tế. Như:

* Giọt ngân phái câu nên vẻ quư, duyên hảo cầu thêm giúp mối tu tề.

Khóc thư châu thổi sánh tiếng ḥa, khuôn nội tắc đă gây nền nhân nhượng.

* Hồ Đỉnh ngậm ngùi cung nọ, đă sắp ch́m châu lấp ngọc bởi từng nguyền.

Cung Khôn bận bịu gối nao, ép v́ vun quế quến lan nên hăy gượng.

 Trong các bài công chúa đứng tế:

* Thuở doành Hoàng tô vẻ, trau vàng chuốt ngọc vẹn mười phân.

* Trăi phen bến Vỵ đưa duyên, phiếm sắc xoang cầm vầy một thể.

* Dù gót ngọc vui miền Tây Thổ, nỡ nào quên hai chồi lan quế c̣n thơ.

* Dù xiêm nghê mến cảnh Thanh Đô, nỡ nào lăng một bóng tang du sắp xế.

Trong các bài tôn thất nhà Lê:

Hẳn non Lam khí vượng đă tàn rồi

Nên vườn Lăng hoa tươi mà vội thế [92]

Tang lễ cử hành rất long trọng. Người người đều tỏ ḷng thương tiếc.

Đương lúc trong triều ngoài nước, biến cố xảy ra dồn dập, mà đ́nh thần cứ lo khuynh loát lẫn nhau, Vua không nghĩ đến nỗi mất c̣n của quốc gia, cứ lo ăn chơi và nghe lời nịnh hót sát hại công thần, khiến mối nước ngày càng thêm rối rắm, ḷng người càng ngày càng thêm ly tán.

Bọn Trần Viết Kiết, Hồ Công Diệu, Trần Văn Kỷ vốn ghét Trần Quang Diệu, nhân thành Quy Nhơn thất thủ, bắt tội Diệu là đồn binh không chịu tiếp ứng, tâu cùng Cảnh Thịnh, xin sai người đưa mật thư vào Quảng Nam báo Vơ Văn Dũng bắt Diệu giết đi. Dũng được thư, tự nghĩ:

- Tội là tội của ḿnh, Trần huynh đă có ḷng tốt không cáo giác, sao nay ḿnh lại nỡ hại ân nhân. Thà đắc tội cùng Vua c̣n hơn phạm tội vong ân bội nghĩa.

Bèn đưa thư cho Diệu xem.

Diệu nổi giận:

- Chúng ta đem hết ḷng hết sức ra pḥ Vua. Vua đă không nghĩ đến công lao th́ chớ, c̣n nghe lời siểm nịnh hết phen này đến phen khác, sẵn tay giết chết chúng ta! T́nh thế không thể để kéo dài măi. Tôn huynh hăy ở lại đây ngừa giặc, tôi về kinh.

Trần Quang Diệu về đóng binh tại bờ phía nam sông Hương, Cảnh Thịnh cho ra vời, Diệu không phụng mệnh. Nhà vua sợ hăi, phải nhờ đến nữ tướng Bùi Thị Xuân.

Nữ tướng Bùi Thị Xuân là chị em thúc bá ruột với Bùi Thái Hậu. Vơ nghệ đă tuyệt luân lại c̣n cùng chồng là Trần Quang Diệu góp một phần lớn trong việc dựng nghiệp cho nhà Tây Sơn. Nhưng v́ là phận nữ lưu không được tham dự quốc sự, trải ba triều Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, bà chỉ lo việc bảo vệ hoàng thành và nội cung với 5.000 nữ binh và 200 thớt voi do bà tập luyện[93]. Thỉnh thoảng bà theo chồng ra trận, như trận đánh Ai Lao năm Quang Trung thứ hai (1785). Năm ấy v́ quốc vương Ai Lao không nạp cống lễ, Vua Quang Trung sai Trần Quang Diệu đem một vạn quân đi vấn tội. Bà lănh đi tiên phong. Đến Vạn Tượng, chỉ xáp chiến một trận là hạ ngay được thành. Chiến thắng này vang dội tới Gia Định. Nguyễn Phúc Ánh rất sợ uy vợ chồng bà. Vua Quang Trung băng hà, bà thọ mệnh pḥ tá ấu chúa. Nhưng Cảnh Thịnh bị bọn gian thần do Bùi Đắc Tuyên cấu kết, làm bức thành giữa bà và nhà vua. Măi đến lúc có việc, Cảnh Thịnh mới nhớ đến bà.

Bùi nữ tướng đến gặp chồng, vợ chồng bàn với nhau .

Mối họa trong triều chỉ do bọn gian thần gây nên. Tận diệt bọn ấy th́ mối giềng lập lại không đến nỗi khó.

Trần Quang Diệu xin Vua bắt bọn gian thần trị tội.

Trần Văn Kỷ đổ tội cho Trần Viết Kiết và Hồ Công Diệu rồi trốn mất. Nhà vua sai bắt Công Diệu và Kiết đem nộp cho Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu vào triều làm lễ cẩn, rồi lănh đại binh trở vào Nam.

Tháng giêng năm Canh Thân (1800) Trần Quang Diệu vào Quảng Nam hợp cùng Vơ Văn Dũng để vào Quy Nhơn. Nhưng tới B́nh Đê cũng bị quân Tống Viết Phước cản lại. Diệu bèn sai người ra Trà Khúc lấy binh của Nguyễn Văn Giáp, và hợp sức với trấn thủ Quảng Nghĩa là Nguyễn Văn Lộc, t́m mưu phá đường vào Quy Nhơn.

 Nguyễn Văn Lộc biết rơ địa thế nơi ranh giới Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, đề nghị chia quân là ba đạo: một đạo đi ngơ đèo Bến Đá, một đạo theo đường hẻm phía tây núi Sa Lung, một đạo theo nẻo tắt xuyên qua núi Cung Quăng. Ba đạo đồng một lượt nổi trống chiêng và la ó, làm cho địch khiếp sợ, hoang mang không biết ngả nào mà chống đỡ. Rồi ba mặt sáp lại đánh địch tất phải thua.

Trần Quang Diệu y kế qua khỏi đèo Bến Đá, thẳng vào thành Quy Nhơn.

Vơ Tánh đem quân ra đánh. Nhưng đánh không lại, kéo quân vào thành cố thủ. Trần Quang Diệu một mặt cho bao vây công kích, một mặt phân công cho Vơ Văn Dũng cầm thủy binh giữ cửa biển Thị Nại.

Quân nhà Nguyễn đă có tên lại có đạn, ở trên thành bắn xuống, quân Tây Sơn không thể đến gần chân thành. Trần Quang Diệu cho đắp trường lũy chung quanh thành vây khốn. C̣n Vơ Văn Dũng th́ đem chiến thuyền Định Quốc và trăm dư chiến thuyển nhỏ, ra đóng giặng ngang cửa biển. Hai pháo đài ở Gành Ráng và Phương Mai bấy lâu bỏ hoang, được dùng sửa sang lại, và đặt súng đại bác để canh pḥng.

Nguyễn Phúc Ánh nghe tin Quy Nhơn bị khốn, tháng 3 năm Canh Thân (1800), cử đại binh ra cứu viện.

Nguyễn Văn Thành cùng Lê Chất, Nguyễn Đ́nh Bắc, Trương Tấn Bửu đem bộ binh ra đánh Phú Yên rồi kéo đóng ở núi Thị Dă, đợi thủy binh[94].

Thủy binh do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy, kéo ra đóng ở Cù Lao Xanh ngoài cửa Thị Nại[95]

Thủy binh cũng như bộ binh đều bị quân Tây Sơn ngăn cản không liên lạc được với nhau, mà cũng không tiến được. Đành phải án binh bất động.

Vơ Tánh đóng chặt cửa thành chờ viện binh.

Trần Quang Diệu cũng vây chặt chờ trong thành hết lương thực.

Lúc bấy giờ Điều quân Thượng đạo là Lưu Phúc Tường liên kết với người Vạn Tượng, Trấn Ninh công nhiễu các trấn Thanh Hóa, Nghệ An. Các thổ dân đều dấy binh sách ứng. Tín đồ Thiên Chúa giáo do các nhà truyền giáo Pháp cổ động, cũng nổi lên đánh phá lung tung.

Ngày 13 tháng 4 năm ấy, lúc giờ Th́n, bỗng hiện ba mặt trời giữa không, chà xát lẫn nhau. Qua giờ thân ngày sau, biến đi một mặt, c̣n hai mặt cũng cứ chà xát với nhau cho đến tối. Nước sông hồ cạn dần.

Đến tháng 10, núi Lôi Sơn bỗng lở. Suốt năm không một giọt mưa. Mùa mất, dân đói. Dân t́nh cực kỳ khốn khổ.

Liệu không cứu được Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh cho rút quân thủy bộ về Gia Định vào tháng 11 năm Canh Thân (1800) để củng cố lực lượng, rồi tháng giêng năm sau, tức năm Tân Dậu (1801), trở ra đánh mạnh.

Theo kế hoạch của Lê Chất, Nguyễn Phúc Ánh chia quân đánh gọng kềm:

- Nguyễn Văn Thành, Tống Viết Phước, Trương Tấn Bửu đem bộ binh từ Phú Yên theo đường núi Dương An, An Tượng đánh ra.

- Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đem thuyền nhỏ vượt ra phía bắc Thị Nại, vào cửa Cách Thử lẻn vào đầm Thị Nại, dùng hỏa công đốt thủy trại Tây Sơn[96].

- Lê Văn Duyệt, Vơ Di Nguy ở ngoài cửa Thị Nại, khi thấy lửa cháy th́ kéo chiến thuyền đánh ụp vào. Bộ binh của Nguyễn Phúc Ánh kéo vào trước. Đến Dương An, bị binh của Nguyễn Quang Huy chận đánh. Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước cầm cự cùng quân Nguyễn Quang Huy, Trương Tấn Bửu kéo lên ngả An Tượng[97]. Ở đây Nguyễn Quang Huy đă bố trí sẵn mấy đội binh người Thượng. Quân Trương Tấn Bửu bị người Thượng núp ở trong bụi rậm bắn ra, lớp bị chết lớp chạy tán loạn, Bửu phải trở lui. Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước cũng không sao qua nổi Dương An, phải cùng Trương Tấn Bửu rút vào Phú Yên đóng giữ.

Ở Thị Nại, Vơ Văn Dũng canh pḥng nghiêm ngặt. Súng đại bác đă sẵn sàng tiêu diệt địch. Nhưng đang đêm, th́nh ĺnh thấy thủy trại cháy vội cho quân đi chữa lửa. Vơ Di Nguy trông thấy ánh lửa liền hô quân tiến vào. Súng trên hai pháo đài bắn xuống đánh ch́m hết đoàn thuyền tiên phong. Vơ Di Nguy bị trúng đạn chết. Lê Văn Duyệt đốc binh tiếp theo, liều chết vượt khỏi tầm súng. Lê Văn Duyệt dùng hỏa công, lửa cháy rật rật và theo gió tạt vào thuyền Tây Sơn. Gió thổi càng mạnh, lửa cất càng cao. Ánh sáng rực cả mặt biển, ngất cả ngh́n dặm mây. Và tiếng súng nổ, tiếng quân la hét rầm trời dậy đất. Quân nhà Nguyễn bị chết vô số. Thuyền Tây Sơn bị đốt không c̣n một chiếc con. Vơ Văn Dũng đại bại, kéo tàn quân lên hợp đồng cùng Trần Quang Diệu giữ những nơi hiểm yếu khác.

Lấy được Thị Nại nhưng không sao cứu nổi thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh đóng giữ Thị Nại, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân ra đánh Quảng Nam và Quảng Nghĩa.

Lúc bấy giờ Lê Sĩ Hoàng đă vào thế Nguyễn Văn lộc để Lộc vào Quy Nhơn tăng cường cho Trần Quang Diệu. C̣n Quảng Nam th́ do Phạm Cần Chánh trấn thủ.

Binh của Nguyễn Văn Chương bị binh của Phạm Cần Chánh và Lê Sĩ Hoàng đánh bại, phải bỏ hết chiến thuyền, chạy bộ trốn vào Quy Nhơn.

Ở Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh vẫn không giải cứu Vơ Tánh được, bèn để Nguyễn Văn Thành giữ cửa Thị Nại, Nguyễn Huỳnh Đức đồn tại đèo Cù Mông để chống cùng Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng, c̣n ḿnh th́ kéo đại quân ra đánh Phú Xuân do biết rằng lực lượng của Tây Sơn một phần lớn dồn ở Quy Nhơn, thế công thủ ở Phú Xuân đều yếu ớt.

Nguyễn Phúc Ánh đi rồi, Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức họp sức nhau đánh Trần Quang Diệu, dưới Thị Nại đánh lên, trong Cù Mông đánh ra. Nhưng mặt núi có Nguyễn Quang Huy, mặt bể có Vơ Văn Dũng, quân nhà Nguyễn bị đánh bật ra khỏi đất Quy Nhơn.

Trần Quang Diệu đốc quân đánh thành thêm kịch liệt.

Quân mệt mỏi, tên đạn cạn, lương thực cạn, Vơ Tánh liệu không tŕ thủ được nữa, bèn viết thư ra cho Trần Quang Diệu yêu cầu lúc vào thành đừng sát hại quân dân vô tội. Đoạn mời Ngô Tùng Châu đến nói:

- Thành thế nào cũng mất. Tôi là tướng vơ phải chết theo thành, nhưng không muốn cho địch thấy mặt. C̣n ngài là quan văn, xin hăy cố mà bảo trọng.

Ngô Tùng Châu đáp:

- Vơ có trung can, lẽ đâu văn lại không nghĩa khí? Tôi xin phép đi trước ngài. Đoạn về dinh, uống thuốc độc.

            Vơ Tánh sai chất củi khô nơi lầu Bát Giác và rải thuốc súng chung quanh lầu. Nghe tin Vơ công sắp tuẫn tiết, người ái thiếp và người lăo bộc xin được chết theo.

 Công không cho. Hai người đợi Công lên lầu rồi, lấy dây tự trói ḿnh vào cột lầu chung với củi. Công thay áo măo, ung dung bước lên lầu, hướng về Bắc lạy năm lạy, rồi truyền châm hỏa. Không ai nỡ ra tay. Công đ̣i hút thuốc. Một điếu thuốc ngon dâng lên. Công hít một hơi dài rồi quăng điếu thuốc vào nơi có thuốc súng. Lửa bốc cháy. Không mấy chốc cả trong lẫn ngoài. Lầu Bát Giác hóa thành một khối lửa cháy hừng hực! Tiếng khóc vang thành! Quản binh Nguyễn Thận hay tin, hối hả chạy về, cảm khích, nhảy vào lửa theo chủ tướng.

Rồi cửa thành mở. Quân Trần Quang Diệu, đội ngũ chỉnh tề, lặng lẽ kéo vào. Tướng sĩ trong thành, bỏ khí giới, đội nào đứng theo đội nấy, không sợ hăi cũng không vênh vang. Quang Diệu ban lời khuyến dụ, rồi cho thu hài cốt hai vị trung thần của nhà Nguyễn chôn cất theo lễ. Viên quản binh, người lăo bộc và người ái thiếp của Vơ công cũng được an táng trong thành bên cạnh mồ Ngô Tùng Châu và Vơ Tánh.

Quang cảnh thành Quy Nhơn lúc bấy giờ vừa bi vừa hùng.

Đó là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).

Trước khi thành Quy Nhơn bị Trần Quang Diệu hạ th́ thành Phú Xuân đă bị Nguyễn Phúc Ánh hạ rồi. Nguyễn Phúc Ánh kéo thủy quân ra đến Phú Xuân vào cuối tháng 4 năm Tân Dậu (1801). Quân nhà Nguyễn vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là Pḥ Mă Nguyễn Văn Trị[98] đem quân ra lập đồn tại Quy Sơn để chống cự. Tiền quân nhà Nguyễn tiến không được. Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem quân đánh tập hậu. Lưỡng đầu thọ địch, Văn Trị không chống nổi, bỏ đồn thoát thân. Thủy sư nhà Nguyễn vào cửa Thuận An rồi kéo lên đánh thành Huế. Vua Cảnh Thịnh phải tự ḿnh kéo quân ra cự địch. Tướng tài không có ai. Nữ tướng Bùi Thị Xuân phải đem nữ binh và tượng binh theo hộ giá. Hai bên đánh nhau từ sáng đến trưa th́ quân Tây Sơn tan ră. Bùi nữ tướng vừa chỉ huy nữ binh, vừa điều khiển tượng binh, khi thủ khi công tả xung hữu đột, mới bảo vệ Vua Cảnh Thịnh được an toàn. Nhưng rồi liệu thế không tŕ thủ được nữa. Nữ tướng bèn pḥ Vua chạy vào thành.

Trong thành các đ́nh thần, vơ cũng như văn, đều bỏ trốn hết.

Không tŕ hoăn được. Nữ tướng liền thúc quân mở cửa hậu, pḥ Vua, Thái Hậu và cung quyến chạy ra Bắc. Nguyễn Phúc Ánh sai Lê Chất đem kỵ binh đuổi theo. Nữ tướng truyền nữ binh pḥ Ngự đi trước, c̣n ḿnh th́ quay trở lại điều khiển tượng binh để chặn quân nhà Nguyễn.

Bầy voi lúc ở trước thành Phú Xuân, v́ lo bảo vệ Vua, nên chỉ giữ thế thủ, lúc này mới được dịp chiến đấu nên ra uy. Cả bầy thét lên một tiếng rồi xông vào đoàn ngựa đương chạy tới. Ngựa thất kinh, lồng lên và hí vang trời, rồi bỏ chạy tán loạn. Quân Nguyễn không đợi đánh đă tan! Lê Chất vội quay ngựa chạy về Phú Xuân. Bùi nữ tướng cũng thu voi chạy theo Ngự giá.

Nguyễn Phúc Ánh vào thành Phú Xuân treo bảng chiêu an.

Đất Thuận Hóa từ đây, ngày 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801) vào tay Nguyễn Phúc Ánh.

Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem quân vào cứu Quy Nhơn, sai Nguyễn Văn Trương ra đóng ở Linh Giang, Phạm Văn Nhân xuống giữ Thuận An, Lưu Phúc Tượng đi đường lên Vạn Tượng mua chuộc Vua Ai Lao và các bộ lạc ở dọc theo biên giới Việt Lào.

Lê Văn Duyệt kéo bộ binh qua đèo Hải Vân vào Quảng Nam.

Lê Chất đem thủy binh vào sông Trà Khúc ở Quảng Nghĩa.

Phạm Cần Chánh trấn thủ Quảng Nam để cho quân Lê Văn Duyệt kéo thẳng vào Quảng Nghĩa gặp quân Lê Chất, rồi cùng Lê Sĩ Hoàng trấn thủ Quảng Nghĩa đánh hai đầu. Quân Nguyễn đông đến 3 vạn, nhưng không chống cự nổi sức mạnh của Phạm, Lê, Lê Chất phải kéo quân chạy ra biển, Lê Văn Duyệt chạy vào Mộ Đức. Ở Mộ Đức, Lê Văn Duyệt lại bị Lê Sĩ Hoàng đánh cho một trận nữa, phải chạy lên núi Thạch Bích tức Đá Vách.

Thạch Bích nằm phía tây nam phủ lỵ Quảng Nghĩa thuộc Nghĩa Hành. Núi cao trên ngh́n thước. Đó là ngọn núi cao nhất Quảng Nghĩa. Khí núi không hùng nhưng thế núi rất hiểm. Vách đá dựng ngược, đường đi khúc khuỷu cheo leo. Trên núi có người Thượng tục gọi là Mọi Đá Vách thường nổi dậy chống chánh quyền địa phương.

Lê Văn Duyệt vốn người Quảng Nghĩa, biết rơ địa thế và tánh t́nh người Đá Vách, nên có thể lên đó đồn trú lâu dài.

C̣n lê Chất chạy ra biển, đóng quân tại Cổ Lũy.

 Cổ Lũy là một cô thôn nằm trên cửa sông Trà Khúc.

Nơi đây xưa kia, người Chiêm Thành đóng đồn ngăn giặc. Đó là một vùng cát trắng mênh mông, phía trước mặt là nơi giao thủy của sông Trà và sông Vệ, bên kia sông là thôn Phú Thọ, và phía đông là cửa Đại mênh mông.

Cũng như Lê Văn Duyệt, Lê Chất đóng binh chờ dịp vào Quy Nhơn.