Quân Xiêm kéo vào Gia Ðịnh một cách rầm rộ.
Trấn thủ Gia Ðịnh là Trương Văn Ða thấy sức giặc quá mạnh,
ra lệnh cho các nơi vừa chận đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng.
Quân Tây Sơn giữ đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Châu Ðốc ở
biên cương rút về Cần Thơ. Quân giặc đuổi theo. Quân Tây Sơn theo bờ sông Hậu
Giang lui dần xuống Ba Thắc.
Ba Thắc (Srok Pra-sak) là một vùng rộng lớn bao trùm Sóc
Trăng, Bạc Liêu... Dân cư phần đông là người Cao Miên. Ðất đai phần lớn là rừng
và bưng biền nước ngập.
Quân Xiêm đuổi đến Ba Thắc bị quân Tây Sơn phục kích đánh
cho một trận tơi bời phải thối lui. Quân Tây Sơn thừa thế vượt sông Hậu Giang
sang Trà Ôn để rồi lui về Ðông Khấu Ðạo ở Sa Ðéc. Quân đóng ở An Xuyên Ðạo (Cà
Mau) bị cô thế cũng rút về Trà Ôn. Giặc lại đuổi theo... Nhưng đến Man Thiếc
(Mânthít) thuộc Vĩnh Long thì gặp đạo quân của Trương Văn Ða từ Sa Ðéc kéo xuống
đánh kịch liệt. Châu Văn Tiếp bị Trương Văn Ða chém chết. Quân giặc rút lui
xuống Trà Cú. Nhưng Trương Văn Ða liệu thế không thắng nổi giặc bèn bỏ vùng đất
miền Tây về phía hữu ngạn sông Tiền Giang, kéo đại binh về đóng ở Mỹ Tho.
Vì mất người hướng đạo là Châu Văn Tiếp, giặc không dám sang
sông, lấy Ðông Khấu Ðạo ở Sa Ðéc làm Tổng Hành dinh .
Sau trận kịch chiến ở Man Thiếc vào khoảng trung tuần tháng
10 năm Giáp Thìn (tháng 11/1784) có vài trận nhỏ kế tiếp, đáng kể là trận tháng
11 năm Giáp Thìn (tháng 12 năm 1784) tại đồn Ba Lai ở giữa Ðịnh Tường và Vĩnh
Long. Chỉ huy trận này là Ðặng Văn Lương, người Ðịnh Tường, theo Phúc Ánh làm
tới chức Chưởng Cơ và Lê Văn Quân cũng người Ðịnh Tường, theo Phúc Ánh làm đến
chức Ðô Ðốc. Ðô Ðốc lên thay Châu Văn Tiếp làm Tổng Nhung. Họ Ðặng và họ Lê cậy
mình là người địa phương thông thạo đường lối, đương tính đem quân đánh úp quân
Tây Sơn. Chẳng ngờ bên Tây Sơn đã phòng bị trước, cho phục binh ở ngoài, đợi
quân Nguyễn vào đồn rồi trong đánh ra ngoài đánh vô. Khí thế quân Tây Sơn rất
mạnh, quân Nguyễn không chống nổi bị giết gần hết. Ðặng Văn Lương bị tướng Tây
Sơn là Nguyễn Văn Kim chém chết. Lê Văn Quân bị Lê Văn Kế đánh trọng thương,
chạy thóat nhưng phẫn uất mà tự sát.
Từ đó quân Xiêm - Nguyễn đóng yên một chỗ.
Trương Văn Ða với số quân không quá 10 nghìn, phải tận lực
giữ vững nửa phần đất còn lại ở phía Ðông từ Tiền Giang trở ra. Vùng đất phía
Tây từ Tiền Giang, Hậu giang trở vô đều thuộc quyền kiểm soát của quân Xiêm -
Nguyễn.
Chiếm được nửa phần đất Gia Ðịnh, tướng sĩ Xiêm sanh ra kiêu
căng. Chúng xem thường quân Tây Sơn, khinh mạn Phúc Ánh, không lo chiến đấu mà
chỉ lo tìm cách cướp bóc của cải, hãm hiếp phụ nữ, sát hại những người Việt Nam
tỏ thái độ hay có hành động chống đối. Chúng đã dùng chiến thuyền chở về Xiêm
không biết bao nhiêu con gái, vàng bạc của cải đã cướp được. Nhân dân ta thán.
Hành động bạo ngược của quân giặc đào sâu lòng căm thù của toàn dân miền Tây và
cả miền Ðông Gia Ðịnh, căm thù cả Xiêm lẫn Nguyễn kẻ rước giặc về phá quê hương,
và hết lòng ủng hộ tướng sĩ Tây Sơn.
Nhờ lòng dân ủng hộ mà Trương Văn Ða với một số quân ít ỏi
có thể chặn đứng được bước tiến của giặc. Nhưng liệu thế không thể kéo dài được
mãi. Cuối năm 1784 Trương Văn Ða sai Ðô Uùy Ðặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ
tình hình ở Gia Ðịnh.
Nghe qua lời tấu của Ðô úy Ðặng Văn Trấn, triều đình Tây Sơn
biết rằng lực lượng của giặc mạnh hơn mấy lần trước thập bội, Vua Thái Ðức liền
sai Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo
trừ. Bùi Thị Xuân xin tòng chinh.
Binh Tây Sơn xuống thuyền vào Nam khoảng hạ tuần tháng 11
năm Giáp Thìn (tức khoảng đầu năm 1785). Quân thiện chiến chừng 2 vạn, danh
tướng, ngoài Võ, Trần, Bùi, còn có Ðô úy Ðặng Văn Trấn và một số thuộc tướng.
Thủy binh Tây Sơn vào cửa Cần Giờ, nhưng không vào Vũng Tàu
để lên Gia Ðịnh như mấy lần trước, mà đi thẳng vào Nam theo cửa sông Tiền Giang
kéo đến Mỹ Tho. Chủ lực của Tây Sơn do Trương Văn Ða chỉ huy đóng tại Mỹ Tho.
Nguyễn Huệ sai Trương Văn Ða ra giữ thành Gia Ðịnh, còn mình
thì đóng quân tại Mỹ Tho quyết một trận tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Trước hết Nguyễn Huệ thân hành đi xem xét địa hình địa thế,
và cho người do thám tình hình của địch.
Mỹ Tho lúc bấy giờ gọi là Trường Ðồn, đất đai phì nhiêu,
rừng núi hiểm trở, sông ngòi lưu thôn. Có thành bằng đất, chu vi độ bốn dặm, có
hai cửa tả hữu, hào rộng 4 trượng, ngoài cửa có cầu ván vững chắc để qua hào,
ngoài hào còn có lũy che chở. Trước mặt đồn có sông Ðại Giang gọi là sông Mỹ
Tho, một chi lưu của sông Tiền Giang. Mặt sau có sông Vàm Cỏ Tây. Nước sông theo
thủy triều mà lên xuống, rất tiện cho việc giao thông. Ở phía tây đồn lại có một
cánh rừng rộng làm hào thành. Rừng ngập sình lầy và mọc toàn dừa nước, nên tục
gọi là Rừng Dừa.
Ðịa thế khá hiểm trở.
Trên sông Ðại Giang tức sông Mỹ Tho lại có một khúc vừa sâu
vừa rộng vừa dài. Ðó là nhờ nước sông Sầm Giang tục gọi là Rạch Gầm và sông Hiệp
Ðức tục gọi là Rạch Cái La hay Rạch Xoài Mút chảy vào tăng lưu lượng cho nước
sông Tiền Giang. Từ Rạch Gầm đến Xoài Mút dông dài 5 dặm (khoảng 6 cây số), và
rộng gần cả dặm (1 cây số). Thủy triều lên thì tràn đầy, khi xuống vẫn không
cạn. Giữa sông có một gò đất bồi chu vi khoảng 5 dặm, gọi là Cù lao Thới Sơn và
một cù lao nhỏ gọi là cù lao Hộ hay bãi Tôn. Hai bên bờ sông và trên cù lao lau
lách và cây bần mọc um tùm và không có vết chân người qua lại.
Nguyễn Huệ dùng khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút và Rừng Dừa
làm trận địa để diệt quân thù. Vì quân Xiêm - Nguyễn tập trung toàn bộ lực
lượng, cả thủy quân tại đạo Ðông Khấu ở Sa Ðéc, lực lượng quá lớn (300 chiến
thuyền và 5 vạn thủy lục quân), không thể nào đánh thẳng vào đại doanh của địch
với số quân không đầy một nửa. Nguyễn Huệ phải dụ địch ra ngoài nơi có lợi thế
cho mình. Nguyễn Huệ cho thủy binh mai phục trong các nhánh sông Rạch Gầm, Xoài
Mút và trong các con sông nhỏ chảy quanh các cù lao. Còn bộ binh thì một đạo mai
phục ở hai bên bờ sông và trên cù lao Thới, trên bãi Tôn, một đội mai phục nơi
Rừng Dừa. Thủy binh do Nguyễn Huệ và Võ Văn Dũng chỉ huy. Bộ binh do vợ chồng
Trần Quang Diệu điều khiển.
Vạn sự cụ bị Nguyễn Huệ cho Võ Văn Dũng kéo binh đến khiêu
chiến. Ðó là chiều ngày mùng 9 tháng chạp năm Giáp Thìn, tức 19 tháng 11 năm
1785.
|