Bình Thuận, từ khi Lý Tài làm phản, thì giao cho Trấn thủ
Diên Khánh là Lê Văn Hưng kiêm nhiệm. Do đó mà thành bị Lê Văn Quân đánh lấy
được dễ dàng. Nhưng khi quân Nguyễn thừa thắng kéo ra Diên Khánh thì bị Lê Văn
Hưng chận đánh phải thối lui vào Bình Thuận. Binh Tây Sơn truy kích, đánh cho
một trận tơi bời, Lê Văn Quân vội rút tàn quân chạy về Gia Ðịnh. Từ ấy quân
Nguyễn rất sợ Lê Văn Hưng và Nguyễn Phúc Ánh gọi Hưng là Lê Vô Ðịch.
Từ ấy Bình Thuận trở ra thuộc về Tây Sơn, từ Bình Thuận trở
vô thuộc về Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh sau khi chiếm được Gia Ðịnh một mặt lo sửa
sang mọi việc về quân sự và nhân sự, một mặt sai sứ sang giao hiếu cùng Xiêm La.
Chỉ trong vòng hai năm, Nguyễn Phúc Ánh đã có ba vạn quân
thủy bộ, tám mươi thuyền chiến hạng vừa, ba thuyền chiến lớn, hai chiếc tàu kiểu
Châu Âu. Ngoài ra còn có thêm ba chiếc tàu đồng do các sĩ quan và thủy thủ Bồ
Ðào Nha điều khiển. Ba tàu này đều đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp
là Manuel tục gọi là Mạn Hòe.
Tự thấy mình đủ sức đối đầu cùng Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh
bèn xưng Vương hiệu. Lễ tấn phong cử hành vào cuối năm Canh Tý (1780). Ðỗ Thành
Nhân được phong chức Ngoại Hữu Phụ Chánh Thượng Tướng Công. Tất cả tướng sĩ đều
được thăng thưởng. Binh quyền do Ðỗ Thành Nhân nắm trọn, chống giữ Tây Sơn ở mặt
Bắc, đánh phạt Chân Lạp ở mặt Tây. Thành Nhân lập được nhiều công lớn, nha tướng
mỗi ngày mỗi thêm đông. Sợ Thành Nhân tiếm vị, Phúc Ánh bèn tìm cách giết chết
năm Tân Sửu (1781).
Ðỗ Thành Nhân chết rồi, Phúc Ánh không còn lo họa bên trong,
liền cử binh đánh Tây Sơn tại Bình Khang (tức Khánh Hòa hiện thời).
Ba đạo quân được điều động. Hai đạo bộ binh do Chu Văn Tiếp
ở Phú Yên đánh vào, và do Tôn Thất Dụ ở Bình Thuận đánh ra. Một đạo thủy quân do
Tống Phước Thiêm, Nguyễn Hữu Thụy, Dương Công Trừng chỉ huy, xuất phát từ Gia
Ðịnh kéo ra chận quân Quy Nhơn ở mặt biển.
Bình Khang là dinh nằm giữa dinh Bình Thuận ở phía Nam và
dinh Phú Yên ở phía Bắc, dinh Bình Khang chia làm hai phủ: phủ Bình Khang ở phía
Phú Yên, phủ Diên Khánh ở phía Bình Thuận. Trấn thủ dinh Bình Khang lúc bấy giờ
là Lê Văn Hưng có một đội tượng binh thiện chiến. Phần lớn quân lực đóng ở Diên
Khánh.
Bình Thuận thuộc quyền chiếm đóng của Nguyễn Phúc Ánh.
Phú Yên do tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc trấn thủ. Chu Văn
Tiếp chỉ chiếm cứ một vùng ở Trà Lương (Tuy An).
Quân Tôn Thất Dụ kéo ra đến Diên Khánh chưa kịp đóng quân
thì bị Lê Văn Hưng cho đoàn chiến tượng xung trận. Quân nhà Nguyễn vốn đã sợ uy
thế Lê Văn Hưng, lại còn sức hùng mãnh của chiến tượng, đều khiếp đảm, rùng rùng
bỏ chạy. Quân Nguyễn chưa đánh đã tan! Còn Chu Văn Tiếp kéo quân ra chưa khỏi
Phú Yên đã bị Nguyễn Văn Lộc chặn đánh tơi bời. Binh bị giết gần hết, một mình
Tiếp tẩu thoát, chạy về trốn ở Trà Lương. Trong tình hình nguy ngập của bộ binh,
thì thủy binh của Tống Phước Thiêm lại không rời khỏi Gia Ðịnh được. Bởi bộ hạ
của Ðỗ Thành Nhân ở Ba Giồng nổi loạn.
Không thể để yên cho Phúc Ánh phát triển lực lượng và chiếm
giữ lâu dài đất gia Ðịnh, Vua Thái Ðức lo việc chinh Nam.
Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782), nhà vua cùng Nguyễn Huệ, Phạm
Ngạn đem 200 chiến thuyền vào Gia Ðịnh. Binh đi thẳng vào cửa biển Cần Giờ.
Ðược tin Nguyễn Phúc Ánh hạ lệnh cho Tống Phước Thiêm đem
thủy quân ra chận đánh. Ðạo thủy quân của nhà Nguyễn gồm trên 400 chiếc thuyền,
lại có một số tàu đồng của Pháp và Bồ Ðào Nha tham dự.
Tống Phước Thiêm dàn thuyền chiến thành hàng tại sông Thất
Kỳ tức ngã Bảy, quyết tiêu diệt binh Tây Sơn. Hai bên kịch chiến. Bên ngoài có
súng trường và đại bác bắn rền trời. Thuyền Tây Sơn anh dũng xông vào bám sát
thuyền địch, dùng pháo lửa (fusée)[48] ném sang vùn vụt. Thuyền địch bị đốt cháy
dữ dội. Tàu của Pháp do Mạn Hòe chỉ huy, có 10 khẩu đại bác, bị hãm không sao ra
khỏi vòng vây, cố sức chống cự cuối cùng bị đốt cháy và đánh chìm, Mạn Hòe tử
trận. Thuyền của nhà Nguyễn không thoát được một chiếc. Tướng sĩ bị chết gần
hết!
Một đội thuyền do Nguyễn Phúc Ánh trực tiếp chỉ huy đến cứu
cũng bị hỏa lực đánh tan, Phúc Ánh vội rút tàn quân chạy về Bến Nghé. Binh Tây
Sơn lớp đuổi theo Phúc Ánh, lớp kéo lên đánh chiếm Thị Nghè, Gia Ðịnh. Phúc Ánh
phải chạy trốn về Ba Giồng, theo phò vừa tướng vừa quân chỉ trên dưới 300 người;
nhưng chưa ở yên thì bị binh Tây Sơn kéo đến đánh, phải chạy hết từ chỗ này đến
chỗ khác từ Gia Ðịnh đến Hậu Giang.
Quân Nguyễn ở Bình Thuận nghe tin Gia Ðịnh thất thủ liền
tiến về cứu viện. Nhưng vừa đến Biên Hòa thì Tôn Thất Dụ bị tướng Tây Sơn là
Phạm Ngạn chận đánh, quân Nguyễn phải thối lui. Vừa lúc đó Châu Văn Tiếp kéo
quân ở Phú Yên vào tiếp ứng. Phạm Ngạn đương đuổi theo quân Nguyễn, giết được
một viên tướng Nguyễn là Hồ Công Siêu, thì bị Châu Văn Tiếp tiếp chiến thình
lình trở tay không kịp liền bị giết. Quân Tây Sơn không dám đuổi tiếp. Tôn Thất
Dụ cùng Châu Văn Tiếp rút ra Bình Thuận.
Nguyễn Phúc Ánh ở Hậu Giang nghe tin quân mình thất bại khắp
mọi nơi, liệu không đủ sức đối phó với Tây Sơn, bèn sai Nguyễn Hữu Thụy cùng 150
người tùy tùng sang Xiêm cầu viện, còn mình thì chạy đến Hà Tiên cùng Lê Văn
Duyệt và một số quan tòng vong chạy ra Phú Quốc.
Thế là đất Gia Ðịnh được bình định. Bộ tướng của Ðỗ Thành
Nhân kéo binh từ Ðông Sơn đến hàng. Vua Thái Ðức thu nạp và trọng dụng.
Tháng 5 năm Nhâm Dần (1782) tình hình Gia Ðịnh đã tương đối
ổn định, Vua Thái Ðức cùng Nguyễn Huệ kéo quân về Quy Nhơn. Ðất Gia Ðịnh giao
cho Ðỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá trấn thủ.
Vua Thái Ðức cùng Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn chưa được
bao lâu thì ở Gia Ðịnh một cựu tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Hồ Văn Lân tập hợp
một số tàn quân của nhà Nguyễn còn lẩn lút ở miền Hậu Giang, nổi lên đánh chiếm
dinh Long Hồ. Một số tướng khác như Dương Công Trừng, Nguyễn Văn Quý cũng đem
tàn quân hợp với Hồ Văn Lân đánh úp thủy quân Tây Sơn ở Lật Giang. Trong khi bọn
Hồ Văn Lân hoạt động ở Gia Ðịnh thì ở Phú Yên Châu Văn Tiếp cũng mộ quân kéo vào
giúp rập.
Ðỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá chỉ có 3.000 quân trong tay, phải
chia ra chống đỡ các mặt. Thành Gia Ðịnh bị yếu thế không trì thủ được lâu. Ðỗ
Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá phải bỏ chạy về Quy Nhơn.
Lấy lại được Gia Ðịnh, Châu Văn Tiếp và các tướng sai người
ra Phú Quốc rước Nguyễn Phúc Ánh trở về.
Ðầu năm Quý Mão (1783) Vua Thái Ðức sai Nguyễn Huệ cùng
Nguyễn Lữ, Lê Văn Hưng, Trương Văn Ða cử đại binh vào đánh Nguyễn Phúc Ánh.
Biết trước thế nào Vua Tây Sơn cũng đem quân vào đánh,
Nguyễn Phúc Ánh lo phòng bị cẩn mật. Một mặt sai Lê Phúc Diễn, Lê Phúc Bình đem
vàng bạc sang Xiêm La, cầu xin Vua Xiêm cứu viện khi Gia Ðịnh bị Tây Sơn tấn
công. Một mặt lo tăng cường phòng thủ thành Gia Ðịnh: đồn Bến Nghé ở phía nam
thành và đồn Thị Nghè ở phía bắc thành là hai đồn lớn nhất và đã xây đắp từ lâu.
Ðồn Bến Nghé là bình phong của thành. Ðồn Thị Nghè nằm trên ngã ba sông Thị
Nghè, có thể khống chế mấy ngã sông Thị Nghè và sông Gia Ðịnh, do đó đủ sức che
chở cho thành một cách vững vàng kín đáo. Hai đồn này được tu bổ nghiêm túc. Hai
đồn mới được xây đắp: đồn Thảo Câu ở phía nam thành, trên sông Vàm Cỏ Ðông; đồn
Dác Ngư ở phía bắc thành, trên sông Gia Ðịnh. Ðồn nào cũng có tướng sĩ canh giữ
nghiêm ngặt. Ðồng thời Nguyễn Phúc Ánh cho khôi phục thủy quân, đóng chiến
thuyền. Trên khúc sông rộng ở hạ lưu Gia Ðịnh giang có đóng nọc ngầm và hai bên
sông có hàng nghìn bè tre chất đầy củi khô và thuốc súng sẵn sàng đánh hỏa công.
Một toán chiến thuyền trên 100 chiếc trang bị đầy đủ dàn sẵn trên sông Gia Ðịnh.
Việc phòng bị lần này nghiêm chỉnh hơn lần trước thập bội.
Thủy binh Tây Sơn đến cửa Cần Giờ ngày 24 tháng 2 năm Quý
Mão (1783).
Nắm vững tình hình của địch. Nguyễn Huệ đợi lúc thủy triều
dâng, gió từ cửa biển thổi mạnh vào đất mới đốc suất chiến thuyền vào cửa sông.
Châu Văn Tiếp chỉ huy chiến thuyền Nguyễn kéo binh ra chống
cự. Tiếp đã bố trí chiến trường, quyết dùng hỏa công tiêu diệt thuyền địch, ít
ra cũng đẩy lui địch không cho tiến vào nội địa. Cho nên mới vừa giáp chiến đã
vội rút lui. Biết rằng có mưu gian, song Nguyễn Huệ vẫn hô quân tiến đánh.
Khi chiến thuyền Nguyễn đã qua khỏi khúc sông bố trí đánh
hỏa công và thuyền Tây Sơn đã lâm vào khu vực bố trí, thì các bè cũi khô nổi lửa
và cắt dây neo để cho trôi xuống thuyền địch. Nhưng vì thủy triều đương lên mạnh
và gió biển theo nước triều thổi mạnh, bè lửa trôi ngược trở lên và lửa đốt cháy
thuyền Nguyễn. Triều càng lên cao, gió càng thổi to, thuyền Tây Sơn đuổi theo
càng gấp, Châu Văn Tiếp liệu không chống cự nổi liền bỏ trốn, rồi theo đường núi
chạy sang Xiêm. Thủy binh của Phúc Ánh hoàn toàn bị tiêu diệt. Nguyễn Huệ chia
quân đến đánh hai đồn Thảo Châu và Dác Ngư. Tướng giữ đồn Dác Ngư là Tôn Thất
Mãn bị Lê Văn Hưng giết chết. Tướng giữ đồn Thảo Châu là Dương Công Trừng bị
Trương Văn Ða bắt sống. Nguyễn Huệ kéo quân đánh thành Gia Ðịnh. Nguyễn Phúc Ánh
hốt hoảng, bỏ thành đem gia đình chạy đến Ba Giồng, chỉ có năm, sáu viên tướng
và chừng trăm quân chạy theo. Tướng sĩ ở Bến Nghé và Thị Nghè cũng bỏ đồn chạy.
Nguyễn Huệ kéo quân vào thành, phủ dụ nhân dân và tướng sĩ
còn ở lại.
Chạy về Ba Giồng, Nguyễn Phúc Ánh tổ chức lại quân đội.
Ðầu tháng 4 năm Quý Mão (1783) cất quân đánh Tây Sơn.
Quân hai bên gặp nhau ở Ðồng Tuyên (Kiến An, Ðịnh Tường).
Quân nhà Nguyễn vừa thấy quân Tây Sơn hùng hổ kéo đến thì đã muốn bỏ chạy. Do đó
mới vừa giáp chiến thì binh liền tan rã, tướng phần nhiều bị giết. Nguyễn Văn
Quý bị Trương Văn Ða chém trên mình ngựa. Nguyễn Huỳnh Ðức bị Lê Văn Hưng bắt
sống. Quân sĩ bị bắt sống trên nghìn người. Quân Nguyễn bị tiêu diệt toàn bộ.
Nguyễn Phúc Ánh tẩu thoát, chạy đến Lật Giang, chạy sang Mỹ
Tho, rồi chạy đến Ba Thắc, cuối cùng chạy đến Hà Tiên để xuống thuyền ra Phú
Quốc.
Về việc chạy trốn của Nguyễn Phúc Ánh, sử nhà Nguyễn chép:
Vương chạy đến Lật Giang thì trên sông tuyệt không có đò
sang ngang. Ngài bỗng thấy một con trâu nằm ngay nơi mé tả, Ngài bèn cỡi lên
lưng trâu để qua sông. Nhưng khi đến giữa dòng thì nước rút quá mạnh, trâu không
bơi được. May một con cá voi nổi lên há miệng ngậm lấy Ngài đưa sang bờ bên kia.
Nhờ vậy mà ngụy quân không nhận được vết tích để truy tìm. Tới xứ Vịnh Cù, Ngài
gặp Thái giám Duyệt đem theo ấn nhỏ bằng vàng cùng các quan tòng vong. Mọi người
xuống thuyền tới cửa Kinh Hào (Long Xuyên) rồi sang thuyền đi Phú Quốc...
(Nguyễn Triều Long Hưng sự tích).
Ðược tin Nguyễn Phúc Ánh chạy ra Phú Quốc, Nguyễn Huệ sai
Phan Tiến Thận đi đánh bắt. Một số tướng lãnh bị bắt sống. Nguyễn Phúc Ánh thoát
chết chạy ra đảo Cổ Long (KohRong). Trương Văn Ða đem một lực lượng thủy quân
lớn đến vây đánh. Nhưng rủi gặp ngày mưa gió lớn thuyền không thể dàn ra để bao
vây mà phải dồn lại ghì chặt vào nhau để chống lại sóng gió. Nhờ vậy Nguyễn Phúc
Ánh có cơ hội đem tàn quân chạy thoát, trốn sang đảo Cổ Cốt (Koh Kut) rồi chạy
về Phú Quốc.
Ðất Gia Ðịnh đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ đã
được tổ chức nghiêm mật, tình hình trong cõi đã tương đối ổn định. Nguyễn Huệ
cùng Nguyễn Lữ và Lê Văn Hưng rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Ða cùng một số
tướng sĩ ở lại giữ thành Gia Ðịnh. Nguyên trước khi Nguyễn Huệ xuất binh, Trương
Văn Hiến tâu cùng Vua Thái Ðức:
- Gia Ðịnh ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn
Trương Phúc Loan, nên không căm thù nhà Nguyễn như người miền Trung. Quân ta vào
đánh quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là cuộc tranh giành quyền vị với
nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy hễ bên nào mạnh, được thì họ
theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó
quân ta cứ lấy được Gia Ðịnh rồi lại mất... Muốn giữ đất được lâu bền, thì phải
làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là lòng của kẻ sĩ.
Do đó Nguyễn Huệ mới để Trương Văn Ða, một người văn võ toàn
tài, ở lại trấn thủ Gia Ðịnh. Và khi quân thắng trận về đến Quy Nhơn, Vua Thái
Ðức sai thêm hai văn thần là Cao Tắc Tựu và Triệu Ðình Tiệp vào trợ lực.
Họ Cao họ Triệu vào đến nơi lo tìm hiểu dân tình dân ý. Hai
ông giả làm thầy địa lý và thầy tướng số để được gần gũi nhân dân. Hai ông nhận
thấy miền Nam hầu hết đều chất phác nhân hậu. Sĩ phu giữ khư khư lời dạy của
thánh hiền, chữ Trung của Hán Nho, Tống Nho đã in sâu vào tâm phủ. Lòng họ đối
với nhà Nguyễn tuy không sâu đậm bằng lòng người miền Bắc đối với nhà Lê, song
có tài chinh phục đến đâu cũng khó thu về cho nhà Tây Sơn trong hôm sớm. Muốn
thu phục nhân tâm miền Nam, thì phải làm sao cho họ thấy nhà Tây Sơn hơn nhà
Nguyễn về mọi mặt.
Trước hết phải có một chính sách tốt.
Chính sách đã có sẵn từ nghìn xưa. Chẳng qua tám chữ Thân
Dân, Ái Dân, An Dân, Lợi Dân. Khó nhất là làm sao thực thi cho được tám chữ ấy.
Trong khi ở Gia Ðịnh nhà Tây Sơn lo việc an dân thì ở Phú
Quốc Nguyễn Phúc Ánh lo cầu cạnh nước ngoài cứu viện để đánh cướp đất.
Nguyên Nguyễn Phúc Ánh có quen cùng hai giáo sĩ Cơ Ðốc Tây
Phương là Linh mục Ly-ô (Liot), người Bồ Ðào Nha, và Giám mục Bá Ða Lộc (Pierre
Pigneau de Béhaine Evêque dAdran), người Pháp, trước kia truyền giáo ở Gia Ðịnh,
sau chạy sang Săn Ta Buôn (Chantabuon) ở Xiêm La lập giáo sở. Phúc Ánh bắt liên
lạc cùng hai nhà truyền giáo ấy, nhờ Linh mục Bồ Ðào Nha mua lương thực và Giám
mục Bá Ða Lộc sang cầu viện nước Pháp. Phúc Ánh hứa bằng giấy tờ, sẽ cắt đất
nhượng cho nước Pháp, và để cho người Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở Việt
Nam sau khi chiến thắng. Con trai đầu của Phúc Ánh là Hoàng Tử Cảnh theo Bá Ða
Lộc làm con tin.
Giám mục chưa kịp xuống tàu sang Pháp thì Phúc Ánh được mật
thư của Châu Văn Tiếp mời sang Vọng Các (Bangkok) hội kiến cùng Vua Xiêm.
Nguyễn Phúc Ánh sang Xiêm vào khoảng tháng giêng năm Giáp
Thìn (1784).
Vua Xiêm tiếp đãi nồng hậu.
Nước Xiêm lúc bấy giờ ở dưới triều Vua Chất Trị (Chakkri)
đương lúc thịnh vượng và đang nuôi tham vọng nuốt Chân Lạpvà Gia Ðịnh để mở rộng
cõi bờ. Ðược Nguyễn Phúc Ánh xin cứu viện, Vua Xiêm chụp ngay cơ hội tốt.
Ðể chuẩn bị cuộc xâm lăng, Vua Xiêm giúp Phúc Ánh tổ chức
một đạo binh gồm đám tàn quân và bọn người Việt lưu vong trên dưới nghìn người
do Châu Văn Tiếp làm Ðại Ðô Ðốc và Mạc Tử Sinh làm Tham Tướng.
Mùa hạ năm Giáp Thìn (1784), Vua Xiêm sai cháu là Chiêu
Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương làm tiên phong, thống lĩnh hai vạn thủy quân
và 300 chiến thuyền, hợp cùng đạo quân của Phúc Ánh từ Vọng Các vượt biển sang
Gia Ðịnh. Ðồng thời nhà vua lại phái hai tướng là Lục Côn và Sa Uyển cùng với
Chiêu Thùy Biện, một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai đạo binh trên 3 vạn
người, tiến sang Chân Lạp rồi từ đó kéo xuống Gia Ðịnh phối hợp cùng thủy binh
của Chiêu Tăng và Chiêu Sương.
Châu Văn Tiếp đã thuộc được lối và biết rõ các nơi hiểm yếu
ở Gia Ðịnh, nên dẫn quân đi trước.
Thủy quân Xiêm đổ bộ lên Rạch Giá.
Bộ binh Xiêm đánh xuống Châu Ðốc.
Ðể phòng ngự mặt biển và mặt sông, thời chúa Nguyễn, Nguyễn
Cư Trinh đã lập ra 5 đạo là Tân Châu Ðạo ở Cù Lao Giêng thuộc Tiền Giang, Châu
Ðốc Ðạo ở Hậu Giang sát biên giới Chân Lạp, Ðông Khấu Ðạo ở Sa Ðéc, Kiên Giang
Ðạo ở Rạch Giá và An Xuyên Ðạo ở Cà Mau.
|