- Anh hùng lúc chưa gặp thời cũng như khi lỡ vận, thường gởi
mình vào những nơi yên hoa, tửu bác, và kẻ có chí lớn thường dùng sòng bạc làm
nơi kén bạn hiền.
Liền tìm đến gặp Nhạc. Nhất kiến như cựu. Từ ấy hai bên
thường qua lại với nhau.
Hôm Trần gặp cọp ở Thuận Ninh là một trong những hôm Trần ở
Hoài Ân vào Kiên Mỹ để gặp gỡ Nguyễn Nhạc.
Hôm ấy Trần không mang đao theo. Ðánh tay không với cọp từ
sáng đến trưa, Trần bị đuối sức nên mới bị thương. Nếu không gặp Bùi Thị Xuân
thì e khó giữ toàn mạng [28].
Thoát chết, Trần yêu cầu đưa về Kiên Mỹ, nhà Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Nhạc và Bùi Thị Xuân vốn đã từng nghe tiếng nhau,
nhưng chưa có dịp làm quen. Nhờ cọp theo gió, gió đưa duyên mà nên nghĩa vườn
đào Bùi, Trần, Nguyễn.
Rồi để cho nghĩa thêm nặng tình thêm thâm, Nguyễn Nhạc đứng
làm mai và làm luôn chủ hôn để Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân nên đôi nên lứa.
* Nguyễn Văn Tuyết, người xã Nhơn Ân, huyện An Nhơn.
Lúc nhỏ có sức mạnh, đánh lộn giỏi, tụ tập kẻ vô lại ở chợ Gò Chàm và được tôn
làm đầu nậu. Những kẻ mãi võ đến chợ, phải đến ra mắt Tuyết rồi mới được hành
nghề.
Một hôm, một ông già, đầu râu như bông vải vừa bắn xong,
cùng hai cô gái mặt mày đẹp đẽ, đến chợ mãi võ. Ông già không theo lệ cũ, vừa
đến liền khua chiêng khai diễn. Cô gái nhỏ múa kiếm vun vút, khí lạnh rợn người.
Người đến xem đông như kiến và tiếng hoan hô dậy trời. Nguyễn Văn Tuyết hay tin
đùng đùng nổi giận, liền kéo mười tên thủ hạ, đến vấn tội ông già. Ông già, hỏi
không thèm đáp, đánh không thèm đỡ, đứng trơ trơ đó như một pho tượng trời
trồng. Tuyết thất kinh bỏ về nhà, tìm cách rửa hận. Do biết ông già và hai người
con gái trọ nơi miếu thổ địa ở sau chợ. Tuyết đợi đêm khuya, giắt kiếm, nhảy
tường vào miếu. Bốn bề im phăng phắc. Hai cô gái ngủ say. Ông già nằm ngáy như
sấm. Tuyết khẽ lén đến gần, rút kiếm đâm vào cổ. Kiếm gãy kêu rắc. Tuyết hết hồn
bỏ chạy. Ông già níu lại. Tuyết run sợ quỳ xuống chịu tội, ông già ngồi dậy nói:
- Nhà ngươi tư chất thông minh lại có sức mạnh xuất chúng.
Sao không lo rèn võ luyện văn, để chờ cơ hội ra giúp nước, mà lại đắm mình trong
vũng bùn nhơ ?
Tuyết lạy, thề quyết tâm hối quá, và van xin theo làm môn
đồ.
Ông già họ Trần tên Kim Hùng là một võ sư người thôn Trường
Ðịnh huyện Tuy Viễn. Võ nghệ tuyệt luân, nhưng người con trai bị mất sớm, cụ
buồn dắt hai người cháu gái đi tìm người xứng đáng để làm người thừa kế. Gặp
được Nguyễn Văn Tuyết, Trần lão rất hài lòng. Tuyết theo Trần lão ra đi. Sau năm
năm trở về, bọn đồ đãng cũ đến mừng. Tuyết khuyên nên bỏ nghề cướp bóc cũ.
Một hôm Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát nam tuần đến Quy Nhơn.
Nghe đồn chúa Nguyễn có con tuấn mã tên Xích Kỳ, Tuyết đợi đêm khuya lẻn vào
hành cung bắt ngựa rồi lên yên chạy thẳng lên vùng An Khê. Trời vừa hửng sáng
thì ngựa đã qua khỏi đèo Vĩnh Viễn. Con Xích Kỳ là cống vật của Cao Miên[29],
chúa rất yêu quý, ngựa bị mất trộm, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bị tội chết. Nhờ
Trương Phúc Loan ra sức cứu mới được miễn. Tuyên cho người đi tìm khắp Quy Nhơn,
Phú Yên, Quảng Nghĩa, nhưng không tìm ra bóng dáng. Khi xa giá chúa Nguyễn trở
về Phú Xuân, thì trong dinh Tuần phủ Quy Nhơn bỗng thấy trên vách mấy chữ lớn:
Kẻ trộm ngựa Chúa là Nguyễn Văn Tuyết ở Tuy Viễn. Tuyên xem thấy, hết hồn, dặn
tả hữu đừng tiết lộ. Việc được im.
Tuyết, sau khi theo thầy học thành tài, trở về Tuy Viễn,
những mong cứu đồng bào ra khỏi ách chuyên chế của chúa Nguyễn, song không biết
làm cách nào đành ôm ấp mộng mà chờ người đồng khí đồng phương. Kịp nghe tin Tây
Sơn Vương chiêu mộ hào kiệt, Tuyết liền lên sơn trại đầu quân. Tại đây Tuyết gặp
lại và kết hôn với cùng cô cháu gái của Trần sư phụ là Trần Thị Lan[30].
* Nguyễn Văn Lộc, lúc nhỏ, nhà nghèo ở chăn trâu cho
một phú nông làng Kỳ Sơn. Học võ lúc nào và với ai, thật không ai biết.
Một hôm đi chơi về khuya, bị quân canh bắt trói vào cột
đình. Lộc nhặt miếng sành cắt dây trói trốn thoát. Quân canh hơn mười người đuổi
theo đều bị đánh ngã không đứng dậy nổi. Trời tối, Lộc chạy lạc vào cánh đồng
lúa chín. Người giữ ruộng ngờ là ăn trộm, hô hoán... Người chung quanh chạy đến
vây bắt. Người mỗi lúc mỗi đông, kẻ gậy người gộc... Lộc đánh ngã lớp này thì
lớp khác xông đến... Liệu không thể dùng quyền để giải vây được, Lộc bèn giựt
cây gậy, đánh một đòn chí tử mở đường máu thoát thân.
Từ ấy người địa phương mới biết Nguyễn Văn Lộc là người võ
nghệ siêu phàm.
Khi nghe tin Tây Sơn Vương tụ tập quần anh, Lộc đến xin gia
nhập, và được tiếp đãi vào hàng thượng tân.
* Võ Ðình Tú, hợp tác cùng Tây Sơn Vương từ buổi ban
sơ. Tú con nhà giàu đất Phú Phong, tính can đảm và hào phóng từ lúc bé. Ðược một
nhà sư dạy võ nghệ và binh pháp.
Nhà sư, pháp danh là gì và ở đâu không ai biết thường đến
ngồi trước ngõ họ Võ. Nhà sư mặt mày xấu xí, ăn mặc rách rưới. Lũ nhỏ trong xóm
hễ trông thấy nhà sư thì kéo nhau đến chọc ghẹo. Tú lúc bấy giờ mới mười bốn
tuổi, đối với nhà sư lại hết sức lễ phép và thường bưng cơm nước hoặc bánh trái
đến cúng dường. Nhà sư hoan hỷ mà nhận.
Một hôm trời nổi mưa gió lớn, mọi người không dám ra đường.
Mưa suốt ngày, đêm đến mưa tạnh gió ngừng, nhưng trong nhà không thấy Tú đâu cả.
Cho người đi khắp nơi, hết ngày này qua ngày khác, vẫn không tìm thấy tung tích,
mà nhà sư từ hôm mưa gió cũng không còn thấy tới lui trong thôn. Người nhà quyết
đoán rằng Tú bị nhà sư bắt, đành thắp nhang cầu Phật gia hộ cho Tú mà thôi.
Mười năm sau Tú trở về; một thanh niên vạm vỡ, sức mạnh như
hùm, nhưng tánh tình chất phác, mới trông qua không ai biết rằng võ nghệ cao
cường.
Về nhà, đóng cửa xem sách, trừ Võ Văn Dũng, không giao du
với ai, cũng không lấy vợ.
Võ Văn Dũng giới thiệu cùng Tây Sơn Vương. Vương thân hành
đến rước.
Sau khi về cùng nhà Tây Sơn. Tú mới trổ tài. Chẳng những côn
quyền xuất chúng, binh pháp tinh thông mà còn có tài bắn cung, nhảy cao, cỡi
ngựa. Thường ưa sử dụng thiết côn, trăm người không địch. Bùi Thị Xuân tặng một
lá cờ đào thêu bốn chữ vàng Thiết côn vô địch. Nguyễn Huệ yêu thương như ruột
thịt, những lúc rảnh rang thường cùng Tú bàn luận về võ nghệ và binh pháp.
* Lê Văn Hưng, vốn là một tay cướp nức tiếng ở Kiên
Dõng[31], ngọn roi[32] tuyệt diệu, quất ra một đòn, đánh ngã trăm người. Tuy làm
nghề ăn cướp, nhưng lấy của người giàu chia cho người nghèo nên được dân địa
phương rất yêu mến.
Hưng có đến vài chục thủ hạ. Ông cấm thủ hạ không được quấy
nhiễu đồng bào. Và Hưng không bao giờ phạm đến tài sản người trong huyện. Những
vụ đánh cướp do Hưng cầm đầu chỉ xảy ra ở các nơi xa và vụ nào Hưng cũng cầm roi
cản hậu. Ðánh người chỉ đánh ngã chớ không đánh chết hoặc gây trọng thương.
Nhưng có một lần - đó là lần chót - cướp được một vố to ở Phú Yên. Khổ chủ là
một tay giỏi võ, gia nhân lại toàn là lực điền có đôi miếng trong mình. Ỷ thị cứ
lăn xả vào đánh Hưng. Hưng nương tay đã nhiều lần, nhưng đối phương không sợ cứ
bám sát. Trời đã gần sáng mà đối phương vẫn chưa chịu lui, Hưng đành phải dùng
tận lực: khổ chủ bị đánh hộc máu, chết tươi.
Các vụ bị cướp suông nhà cầm quyền không để ý. Nhưng vụ cướp
này gây án mạng, chánh quyền không thể bỏ qua. Biết thủ phạm là Hưng, Tuần phủ
Phú yên hợp lực cùng Tuần phủ Quy Nhơn cho truy nã gắt... Hưng đành phải bỏ nhà
vào rừng. Rồi nhân Tây Sơn Vương mộ binh. Hưng bèn nhập ngũ. Nhờ tài nghệ, không
bao lâu, từ cấp lính lên cấp Ðội rồi lên lần đến cấp Tướng.
* Lý Văn Bưu, còn có tên là Mưu, người làng Ðại
Khoang huyện Phù Cát tỉnh Bình Ðịnh. Nổi danh từ thời niên thiếu có biệt hiệu là
Phi Vân Báo (con beo bay trong mây) có tài vừa cưỡi ngựa phi nước đại vừa múa
kiếm, phóng lao, bắn cung trăm phát trăm trúng. Ngoài ra, ông còn có tài nuôi
ngựa chiến. Nhờ địa thế vùng từ Ðại Khoang, Thuận Truyền qua Thuận Ninh đất xấu,
toàn gò đống, cây dại cùng chà là, sim, ổi mọc chen chúc lẫn với cỏ dại rất
thích hợp cho việc chăn nuôi, săn bắn, nên gia đình ông chuyên nghề nuôi bò ngựa
và săn bắn. Ðồng thời chuyên tập luyện võ nghệ, nghiên cứu chiến trận.
Bà Bùi Thị Xuân thường đến khu vực này săn bắn nên quen thân
với ông Bưu và học ông cách thức luyện tập ngựa chiến.
Tây Sơn khởi nghĩa, ông Bưu được bà Xuân tiến cử, phụ trách
chăn nuôi sản xuất tại nông trại Tây Sơn Hạ, kết hợp tổ chức tập luyện đoàn
chiến mã và rèn luyện nghĩa binh.
Nhờ tài thao lược, ông được phong chức Ðô Ðốc cầm binh tham
gia các trận đánh ở trong Nam và giải phóng thành Thăng Long.
* Nhưng Huy và Tứ Linh tên thật là gì và quê quán nơi đâu, không rõ. Làm
nghề lục lâm, sào huyệt tại nguồn An Tượng thuộc Tây Sơn Hạ, nhưng chỉ làm ăn từ
Phú Yên trở vô. Cả hai đều là tráng lực sĩ, võ thuật cao, song tánh hung bạo.
Tây Sơn Vương dùng với sự dè dặt [33].
Ðó là bên võ. Còn bên văn thì có:
* Nguyễn Thung, tuy là một phú nông song sử kinh đều
thông thuộc. Tánh tình hào phóng, nhân hậu, nên rất được lòng mọi người.
* Võ Xuân Hòai, Trương Mỹ Ngọc, đức cao học rộng, hai
ngôi sao về văn học đương thời ở Bình Khê và An Nhơn.
* Cao Tắc Tựu, người đẹp, học rộng lại tinh thông
binh pháp. Ngày thường ít nói, nhưng khi bàn việc lớn thì lời như nước chảy. Mọi
người đều kính phục.
* La Xuân Kiều, một văn sĩ có tiếng ở Phù Cát, giỏi
Nôm, lại cưỡi ngựa giỏi, bắn cung hay. Thông minh hoạt bát.
* Triệu Ðình Tiệp, học rộng ưa thực tế, ghét phù hoa.
Tánh thanh khiết nghiêm nghị. Rất trọng chữ tín. Giỏi việc cai trị.
Ðây là những nhân vật rường cột, ngoài ra còn rất nhiều
người tài.
Nhưng Tây Sơn Vương nhận thấy chưa đủ, nên trải lòng cầu
hiền.
Hai viên tướng Tàu là Tập Ðình ở Hội An (Quảng Nam), Lý Tài
ở cửa bể Phù Ly (Quy Nhơn) đem quân ứng theo Tây Sơn Vương.
Quân của Tập đình gọi là Trung nghĩa quân.
Quân của Lý Tài gọi là Hoa nghĩa quân.
Quân trong hai đội hầu hết đều là người Tàu to lớn, mạnh
bạo. Khi ra trận uống rượu say, cởi trần, lấy giấy vàng bạc dán cùng mình, cất
tiếng hét vang, sấn vào tấn công kẻ địch. Tây Sơn Vương đón tiếp nồng hậu và cho
vào đóng trong thành, chờ dịp tấn công.
Kế đó là một tráng sĩ xin vào yết kiến. Tây Sơn Vương cho
mời vào thì là Phan Văn Lân, người bạn học cũ.
Họ Phan người ở miền ngoài, nhưng không rõ phủ, huyện nào.
Võ giỏi, tự bảo rằng võ mình được truyền từ Phạm Ngũ Lão đời Trần, thiên hạ vô
địch. Nhưng khi vào An Thái yết kiến Trương Văn Hiến, thì liền lạy xin làm đệ
tử. Trước kia họ Phan tự thị tự đắc bao nhiêu thì sau khi thọ giáo cùng Trương
công lại khiêm tốn bấy nhiêu.
Gặp được bạn cũ, Tây Sơn Vương hết sức vui mừng, mời họ Phan
ở ngay trong cung, Phan không chịu xin ra nơi các dinh thự cùng chư tướng.
Một hôm có một nhà sư, hình thù cổ quái, nghe tiếng tăm của
Phan Văn Lân, bèn đến xin gặp, Phan tránh mặt. Nhưng quân sĩ thúc giục, Phan giả
lính theo thuộc hạ ra xem. Nhưng nhà sư nhìn biết, thách Phan đấu võ. Nhận thấy
nhà sư không phải hâm mộ nghệ thuật muốn làm bạn bốn phương, mà là một khách
giang hồ, bụng đầy ác ý. Phan quyết định trừ khử để tránh mối họa về sau.
Lúc ấy nhà sư đương ngồi uống rượu nơi tầng hai một tửu lâu
ở trước thành. Phan xủ tay áo ngồi, thách nhà sư ra tay trước. Bị chạm lòng tự
ái, nhà sư nổi giận thình lình đá Phan một ngón tối độc. Phan chỉ nghiêng mình,
lấy tay hất nhà sư rớt xuống lầu vỡ sọ.
Khi Phan mới đến, ngoài Tây Sơn Vương, các tướng thấy Phan
hiền lành, ai cũng tưởng là kẻ tầm thường. Khi Phan đánh chết nhà sư, mọi người
mới biết có tài siêu việt. Tướng sĩ yêu cầu Phan cho xem tài nghệ. Phan nhất
định từ chối. Nài nỉ quá, Phan bảo rinh ba tảng đá dày chồng lên nhau, rồi đưa
sống bàn tay phải chém xuống. Ba tảng đá đều vỡ làm đôi như bị lưỡi gươm thần
chém đứt. Ai nấy đều gọi là người thần.
Nhà sư bị Phan Văn Lân hất rớt xuống tửu lâu là một người
Trung Quốc, thuộc phái Thiếu Lâm.
Ở chợ Gò Chàm, phía bắc thành Quy Nhơn, còn có một nhà sư
nữa cũng người Tàu thường đến biểu dương võ nghệ, thường cởi áo ngồi ngay ngắn,
cho người dùng gươm đao chém vào đầu mình tay chân. Chém mạnh mấy cũng không hề
gì. Tây Sơn Vương được tin, sợ nhà sư gây biến, muốn trừ, nhưng không thể giết
được. Võ Văn Dũng lãnh trách nhiệm trừ nhà sư.
Võ đến chợ Gò Chàm gặp nhà sư, dùng lễ khoản đãi. Khi đã nên
thân, Võ hỏi:
- Hòa thượng là người đã đạt đạo, không biết có khi nào bị
lạc thú của trần gian cám dỗ chăng? Nhà sư đáp:
- Lòng ta như tro lạnh không có gì có thể cám dỗ.
Võ cười:
- Lời nói không đáng tin. Có thể cho phép được thí nghiệm?
Nhà sư bằng lòng. Võ thuê mươi tên thanh niên vô lại và mươi gái thanh lâu xinh
đẹp trải chiếu làm việc dâm dục trước mặt nhà sư. Ban đầu nhà sư cười nói như
thường. Nhưng hồi lâu, bỗng nhắm mắt không muốn nhìn nữa. Xuất kỳ bất ý, Võ rút
kiếm chém một nhát, đầu nhà sư rơi liền tay. Võ nói:
- Nhà sư không có thuật gì lạ. Dày công luyện khí làm cho
thân thể cứng rắn. Tâm định thì khí tụ, tâm động thì khí tan. Lúc ban đầu tâm
nhà sư không động nên nhà sư dám nhìn tự do. Ðến khi nhà sư nhắm mắt thì biết
tâm nhà sư đã động rồi. Cho nên chém xuống, không thể kháng cự được.
Ai nấy đều phục Võ là cao kiến. Tây Sơn Vương rất hài lòng.
Ít lâu sau, Trần Quang Diệu đưa một tráng sĩ về tiến cử cùng
Tây Sơn Vương.
Tráng sĩ đó là Võ Văn Nhậm.Võ Văn Nhậm người Quảng Nam, sức
mạnh hơn người, đánh giặc giỏi, tánh phóng khoáng không chịu sự ràng buộc. Vốn
là tướng của quan trấn thủ Quảng Nam, vì không chịu tuân theo luật pháp, bị tội,
phải trốn vào Quy Nhơn.
Nhậm đến Phù Ly, nghe người đi đường cho biết có tên cường
hào cưỡng đoạt con gái chưa chồng. Nhậm giận, tuốt gươm giết tên thổ hào, rồi
định đến cửa quan chịu tội. Bỗng một tráng sĩ đến vỗ vai:
- Tôi xem anh chí khí tài lực đủ định loạn thiên hạ dễ dàng.
Giết một con sâu dân thì có chi gọi là tội mà toan bỏ cái thiên tài hữu dụng?
Sao không đến Tây Sơn Vương để chung lo việc lớn. Tôi, Trần Quang Diệu, xin tiến
cử anh lên nhà vua. Võ Văn Nhậm hớn hở theo Trần Quang Diệu.
Tây Sơn Vương trọng dụng và sau này gả con gái là Thọ Hương
công chúa cho[34].
Tiếng chiêu hiền đãi sĩ của Tây Sơn Vương mỗi ngày mỗi bay
xa. Các anh hùng chí sĩ lần lượt đến giúp mỗi ngày mỗi đông.
Ngày kia có người tới xin được góp sức góp tài, xưng danh là
Ngô Văn Sở. Ngô Văn Sở người làng Bình Thạnh (Tuy Phước) có sức mạnh, giỏi võ
nghệ, thông binh pháp. Cùng với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng kết bạn thân [35].
Ðó là những bậc kỳ tài. Còn nhiều tay võ giỏi khác ứng mộ
tòng quân sau lập nhiều công lớn.
Các bậc văn nhân đến phò tá Tây Sơn Vương cũng đông:
* Mã Vĩnh Thắng ở An Nhơn, nổi tiếng về thơ và từ.
* Lưu quốc Hưng ở Phú Yên, có tiếng là cương chính.
* Huỳnh Văn Thuận, người Quảng Nghĩa, học rộng, nổi
tiếng hay chữ từ lúc nhỏ, có tài thuyết phục nhân tâm.
* Võ Văn Cao, người ở dưới chân núi Cù Mông thuộc Phú
Yên. Học rộng, giỏi kinh dịch, ghét đạo Phật đạo Lão, không ưa thơ văn phù
phiếm. Chuộng thực tế. Tánh nghiêm nghị, cương trực.
* Anh em Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh người gốc
huyện Hùng Nguyên tỉnh Nghệ An, tổ tiên bị chúa Nguyễn bắt vào khai phá khu vực
phía đông chân Hòn Lớn thuộc xã Ðại Phong, huyện Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi. Tuy
nhà nghèo nhưng thông minh hiếu học, vào An Thái thọ giáo Trương Văn Hiến, bạn
đồng môn cùng anh em Nhạc, Huệ.
Ngoài ra dưới cờ nữ tướng Bùi Thị Xuân có bốn phó nữ tướng
trẻ đẹp tài cao: Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung, Huỳnh Thị Cúc.
* Bùi Thị Nhạn là con gái út Bùi Ðắc Lương, một cự
phú thôn Xuân Hòa huyện Tuy Viễn. Ông Lương sanh ba trai là Bùi Ðắc Chí, Bùi Ðắc
Trung, Bùi Ðắc Tuyên và hai gái là Bùi Thị Loan, Bùi Thị Nhạn. Bùi Thị Xuân là
con Bùi Ðắc Chí gọi Bùi Thị Nhạn bằng cô, nhưng Bùi nữ tướng lớn tuổi hơn và đào
tạo Bùi Thị Nhạn thành một nữ kiếm khách.
* Trần Thị Lan là em ruột Trần Thị Huệ phu nhân
Nguyễn Nhạc, con Trần Kim Báu, cháu võ sư Trần Kim Hùng người thôn trường Ðịnh
huyện Tuy Viễn. Khi Lan lên ba thì bà Báu qua đời, ông buồn gởi hai con cho ông
bà nội Trần Kim Hùng, một thân dấn bước giang hồ. Lớn lên, Thị Huệ theo bà nội
học nữ công, Thị Lan theo ông nội học võ nghệ, có tài về kiếm thuật và luyện
thân lanh lẹ như chim én nên tự hiệu là Ngọc Yến. Võ sư rất yêu quý, đi đâu cũng
đem theo. Trần Kim Báu vào đến Bình Khương (tức Khánh Hòa sau này) mở trường dạy
võ tại huyện Quảng Phước (tức Vạn Ninh) cưới vợ địa phương sanh được một trai
tên là Trần Kim Sư. Khi lên hai thì cha mất. Kim Sư sống cùng với mẹ. Võ sư Kim
Hùng được tin con mất đem hai cháu vào thọ tang. Lúc ấy Thị Huệ đã mười bảy, Thị
Lan lên mười hai. Tang lễ xong lão sư đem hai cháu gái về xứ. Lúc về cũng như
lúc đi, lão sư bày việc mãi võ để vừa nghỉ chân vừa kiếm tiền lệ phí.
Về đến Gò Chàm lão sư gặp Nguyễn Văn Tuyết. Biết Tuyết là
người có tài, lão sư về nhà giao hai cháu cho vợ rồi cùng Tuyết đi vân du.
Sau đó Trần Thị Huệ kết duyên cùng Nguyễn Nhạc. Nghe tiếng
Bùi Thị Xuân võ nghệ cao cường, Thị Lan theo chị lên kết bạn cùng Bùi nữ tướng.
* Nguyễn Thị Dung và Bùi Thị Cúc là người Quảng Ngãi.
Bà Dung là em của Nguyễn Văn Xuân người làng Lạc Phổ huyện
Mộ Ðức. Bà Cúc là em Huỳnh Văn Thuận người làng Ðông Quang huyện Sơn Tịnh. Hai
họ là chỗ quen thân. Ông Xuân và ông Thuận có tài về văn học. Bà Dung và bà Cúc
có tài về kiếm thuật. Nghe tiếng Trương Văn Hiến, bốn anh em rủ nhau vào xin thọ
giáo. Trương công không thu nạp nữ đồ đệ. Ông Xuân và ông Thuận ở lại An Thái
học văn. Hai cô gái được Trương công giới thiệu lên Xuân Hòa thụ nghiệp cùng Bùi
Thị Xuân.
Bà Dung và bà Cúc tuổi tác cùng tài nghệ tương đương với bà
Nhạn bà Lan. Cả bốn đều tôn Bùi nữ tướng làm thầy và coi nhau như ruột thịt.
Người đương thời gọi là Tây Sơn Ngũ Phụng thư.
Ngũ phụng đã cùng nhau tổ chức, huấn luyện và điều khiển một
đoàn tượng binh gồm một trăm thớt voi và một đoàn nữ binh trên hai ngàn người
cho nhà Tây Sơn.
Trong Ngũ Phụng thư, chỉ Bùi Thị Xuân đã có chồng là Trần
Quang Diệu, trước khi kết bạn cùng các nữ anh hùng. Còn các người khác, kẻ trước
người sau lần lượt theo chồng sau khi đã lập nên danh nghiệp.
Bùi Thị Nhạn kết duyên cùng Nguyễn Huệ sau khi Phạm Thị Liên
qua đời.
Trần Thị Lan kết duyên cùng Nguyễn Văn Tuyết khi Tuyết đến
cùng Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Thị Dung kết duyên cùng Trương Ðăng Ðồ là người Mỹ
Khê huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi, một danh tướng của Tây Sơn.
Riêng chỉ có Huỳnh Thị Cúc không chịu xuất giá, suốt đời
theo phò tá Bùi Thị Xuân.
Những trang tài tuấn văn võ cùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ gây
dựng Nhà Tây Sơn ngoài những người đã liệt kê trên kia còn nhiều người nữa song
có công đắp móng xây nên khi chưa dựng cờ khởi nghĩa thì có:
- Bên võ có bảy người là: Võ Văn Dũng, Võ Ðình Tú, Trần
Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc, danh
truyền Tây Sơn Thất Hổ tướng.
- Bên văn có sáu người là Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trương
Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều, Triệu Ðình Thiệp, Cao Tắc Tựu, người đương thời gọi là
Lục Kỳ sĩ. Thất hổ tướng, Lục kỳ sĩ và Ngũ phụng thư hợp thành Tây Sơn thập bát
cơ thạch, nghĩa là mười tám tảng đá làm nền móng của Nhà Tây Sơn.
|