Tây Sơn Khởi Nghĩa

 

Cơ sở đă vững vàng, quân sĩ, vũ khí, lương thực tạm đầy đủ, Nguyễn Nhạc xuống An Thái thỉnh giáo thầy, Trương Văn Hiến đáp:

- Khởi sự được rồi. Nguyễn Nhạc xin thầy lên nắm quyền chỉ đạo, Trương công nói:

- Ông là người trí dũng có thừa. Huống nữa văn nhân vơ sĩ về với ông đều là những anh hùng hào kiệt. Tôi tuổi già sức yếu, chỉ mong được hưởng chữ nhàn. Nhưng khi có việc cần, tôi sẵn sàng góp sức.

Công lại dặn:

- Ba yếu tố cần thiết để thành công, ông đă có đủ. Nhưng luôn luôn phải giữ vững nhân tâm. Được đất không bằng được thành, được thành không bằng được ḷng người.

Nguyễn Nhạc bái tạ về, lo chỉnh đốn quân ngũ, sắm kỳ hiệu, đặt quan chức.

Quân chia làm ba đạo:

- Một đạo lo canh pḥng chiến khu, tiếp tục tuyển mộ và huấn luyện binh sĩ, đô đốc việc sản xuất và giữ an ninh trật tự ở vùng Tây Sơn.

- Một đạo xuống đánh chiếm huyện lỵ Tuy Viễn.

- Một đạo ra chiếm giữ vùng núi hai huyện Phù Ly, Bồng Sơn sau khi huyện lỵ Tuy Viễn bị hạ.

Đạo thứ nhất giao cho Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Vơ Đ́nh Tú, Vơ Xuân Hoài.

Đạo thứ nh́ do Nguyễn Nhạc thống lănh, có Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc bên vơ, Trương Mỹ Ngọc, Triệu Đ́nh Tiệp bên văn pḥ tá.

Đạo thứ ba do Trần Quang Diệu chỉ huy, có Vơ Văn Dũng, Lê Văn Hưng bên vơ, La Xuân Kiều, Cao Tắc Tựu bên văn cộng tác.

Kỳ hiệu h́nh vuông, nền đỏ, chữ vàng, viền ngoài và tua xanh.

Đại kỳ thêu kim tuyến ba chữ Tây Sơn Vương.

Quân kỳ nhỏ thua đại kỳ một mười một tám, thêu chỉ vàng họ và chức vị cấp chỉ huy.

Quan chức, đại loại gồm có: Bên vơ: Đại Tổng Quản, Đại Đô Đốc, Đô Đốc, Đề Đốc. Bên văn: Đại Học Sĩ, Hiệp Biện Đại Học Sĩ.

Nguyễn Huệ được phong Đại Tổng Quản.

Bùi Thị Xuân, Vơ Đ́nh Tú được phong Đại Tổng lư.

Vơ Xuân Hoài được phong Đại Học Sĩ.

Phong Trần Quang Diệu làm Đô Đốc, Vơ Văn Dũng là Phó Đô Đốc, Lê Văn Hưng làm đề đốc.

Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc làm Tả Hữu Đô Đốc.

Các quan văn đều được phong Hiệp Biện Đại Học Sĩ.

Việc vận tải lương thực giao cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Thung với chức tán tương quân vụ. Nguyễn Thung lo mặt Bắc, Nguyễn Lữ lo mặt Nam.

Việc sơn pḥng giao trọn cho chúa Xà Đàng Bok Kiơm. Các sắc tộc vùng An Khê, Pleiku, Kon Tum đều thuộc quyền quản lư của Bok Kiơm, Nguyễn Nhạc tặng Bok Kiơm một nón lông đen chớp bạc quai tua điều, một con chiến mă và một cây mác bạc.

C̣n bà họ Trần và Cô Hầu vẫn tiếp tục việc buôn trầu, làm ruộng, với sự trợ lực của Bùi Thị Xuân.

Mọi việc an bài, Nguyễn Nhạc lập đàn cáo Trời Đất, hợp thức hóa danh vị chức chưởng của chúa tôi và tế cờ xuất quân.

Đàn lập trên đèo An Khê, nơi nghẹo Cây Khế, dưới bóng hai cây đại thọ: Cây ké, cây cầy. Binh tướng của ba đạo quân tập trung về phía đông đèo An Khê từ chân đèo đến đỉnh đèo.

Khi đại quân đến gần tế đàn th́ từ trên cây ké một con rắn ḅ xuống. Con rắn này thân lớn bằng cột nhà. Sắc đen nhánh như hạt huyền, người đương thời gọi là Ô Long, nằm chận ngang đường đi. Quân không dám tiến, Nguyễn Nhạc liền tuốt gươm chém chết. Nhớ chuyện Hán Cao Tổ chém rắn khởi nghĩa, tướng sĩ tin là điềm lành, ai nấy đều nức ḷng phấn chí.

Lễ tổ chức đơn giản nhưng long trọng.

Bóng cờ đào chen bóng cây xanh, tiếng chuông trống lẫn tiếng hô của tướng sĩ, tràn ngập, vang dội cả suối rừng. Hùng khí ngút ngàn.

Lễ tất, Tây Sơn Vương ban bố quân luật, gồm ba điều:

* Không được xâm phạm tánh mạng và tài sản của đồng bào.

* Không được tiết lộ bí mật quân sự.

* Không được gây xáo trộn, chia rẽ trong hàng ngũ.

Ai phạm phải một trong ba điều, sẽ bị chém tức khắc. Tiếng hoan hô vang rừng.

Rồi lệnh truyền xuất phát. Đạo quân Nguyễn Huệ kéo về chiến khu.

Đạo quân Trần Quang Diệu theo đường núi ra hướng bắc.

Đạo quân Tây Sơn Vương kéo thẳng xuống hướng đông.

Đó là ngày rằm tháng tám năm Quư Tỵ (1773).

Đạo quân của Tây Sơn Vương xuống đến núi Bà Phù th́ trời xẩm tối. Vương truyền quân dừng lại nghỉ. Đêm đến mở yến tiệc đăi tướng sĩ tại thung lũng dưới chân núi Bà Phù. Sáng hôm sau mới tiếp tiến phát.

Nhân đồn binh được yên ổn và yến ẩm được vui vầy. Vương đặt tên ḥn Bà Phù là Tâm Phúc, và người địa phương gọi thung lũng Bà Phù là Hóc Yến.

Sáng ngày 16, gà vừa cất tiếng gáy, đạo quân của Tây Sơn Vương đă thức dậy lên đường.

Nguyễn Lữ đă chuẩn bị sẵn sàng tại chân núi Đồng Phong để đón tiếp.

Đến Đồng Phong tướng sĩ dừng lại ăn uống và lănh lương thực, rồi đi thẳng một mạch đến huyện lỵ Tuy Viễn. Binh đi như gió. Mặt trời vừa mọc th́ huyện lỵ đă bị bao vây. Tiếng quân ḥ hét dậy đất. Viên tri huyện hết hồn bỏ trốn. Nhân viên trong huyện và tất cả lính huyện đều xin đầu hàng.

Tây Sơn Vương ban lời phủ dụ. Trong công phủ ngoài nhân dân, mọi người đều hoan hỉ. Những nhà khá giả đem ḅ heo gạo trái đến đăi nghĩa quân.

Nghe Tây Sơn Vương chiếm đóng Tuy Viễn, một phú thương ở Cửa Giă [17] là Huyền Khê đem gia nhân trên mười người đến xin gia nhập nghĩa quân và cúng tất cả tài sản để làm lương thực. Tiếp theo đó, hai thủ lănh lục lâm ở nguồn An Tượng [18] là Nhưng Huy và Tứ Linh đem lâu la đến xin quy thuận.

Tây Sơn Vương thu nạp và trọng dụng.

Vương giao Tuy Viễn cho Nguyễn Văn Tuyết và Huyền Khê đóng giữ, rồi kéo đại binh ra đánh thành Quy Nhơn.

Được tin Tuy Viễn đă vào tay nghĩa quân rồi. Trần Quang Diệu liền chia đại binh ḿnh chỉ huy ra làm ba đội. Một đội giao cho Lê Văn Hưng ở lại hậu phương. Một giao cho Vơ Văn Dũng cùng Cao Tắc Tựu đi đánh Bồng Sơn, c̣n ḿnh lănh một đạo đi đánh Phù Ly cùng La Xuân Kiều.

Bồng Sơn và Phù Ly, nghĩa quân kéo đến, chưa đánh đă lấy được.

Quân cũng như dân của hai huyện đều hân hoan đón tiếp nghĩa binh.

Trần Quang Diệu để Vơ Văn Dũng cùng hai học sĩ Cao, La ở lại giữ huyện lỵ hai nơi, c̣n ḿnh th́ đem quân vào hợp với Tây Sơn Vương đánh thành Quy Nhơn.

Thành Quy Nhơn là thành cũ Đồ Bàn của Chiêm Thành.

Sau khi đất Đồ Bàn thuộc về Việt Nam th́ đặt thành phủ và chia làm ba huyện. Phủ gọi là Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam, huyện là Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Phủ lỵ, đóng tại thành Đồ Bàn gọi là thành Quy Nhơn, huyện lỵ Bồng Sơn đóng trên bắc ngạn sông Lại Giang, đối diện với ḥn Bích Kê ở nam ngạn. Huyện lỵ Phù Ly đóng tại Phù Mỹ gần sông La Tinh. Huyện lỵ Tuy Viễn đóng ở nam ngạn sông Côn cách An Thái chừng 1 cây số. Địa phận của ba huyện chạy dọc theo ba con sông Cái: Lại Giang, La Tinh Giang, Côn giang[19].

Thành Quy Nhơn ở giữa Tuy Viễn và Phù Ly.

Tường xây bằng đá ong, trên một giải g̣ cao, chung quanh có hào sâu bao bọc, thế rất vững.

V́ vậy nên quân Tây Sơn vây đánh đă ba ngày mà không lấy được. Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên đóng cửa thành cố thủ.

Không dùng sức được, Tây Sơn Vương bèn dùng mưu.

Vương truyền lui quân rồi cho đi đóng rải rác trong những nơi khuất tịch, nằm im chờ lệnh. Tuần Tuyên tưởng quân Tây Sơn đă kéo về núi, thông cáo cho nhân dân ai bắt sống Nguyễn Nhạc đem nạp hoặc giết chết lấy đầu đem nạp, sẽ được trọng thưởng. Tây Sơn Vương bèn cho đóng một chiếc cũi thật kiên cố, bên trong có máy mở đóng, rồi tự ḿnh vào ngồi trong cũi, bảo khiêng đem nạp cho tuần Tuyên.

Trước khi đi, Vương ra lệnh và sắp xếp:

- Tướng sĩ phải chuẩn bị sẵn sàng, hễ nghe trong thành có tiếng pháo nổ th́ kéo vào chiếm thành.

- Lựa tám quân nhân giỏi côn quyền, ăn mặc theo thường dân, để khiêng cũi. Khi vào được cửa thành th́ dùng đ̣n khiêng cũi làm côn tháo thanh cũi làm gậy đánh quân giữ thành.

Cho một toán quân vài mươi người ăn mặc theo thường dân, mượn cách nghiêm giải, mang vũ khí đi theo hai bên cũi. Tổ chức một số thường dân cho chạy trước và chạy sau đoàn khiêng cũi, la Đă bắt được giặc rồi đồng bào ra coi....

Nhưng Huy và Tứ Linh lẩn theo đám đông người đem quân mai phục ở hai bên cửa thành, hễ nghe pháo lệnh th́ xông ngay vào thành.

Sắp đặt xong xuôi, Vương truyền quân khiêng cũi đi.

Đồng bào hai bên đường kéo ra xem đông đảo.

Tuần Tuyên nghe tin, cho người lên thành xem thử rồi truyền mở cửa thành, nhưng chỉ cho hai người khiêng cũi vào thành. Những người khiêng lấy cớ cũi quá nặng, hai người không khiêng nổi. Xin cho cả tám người vào khỏi cửa rồi ra ngay. Tuần Tuyên y cho. Cũi khiêng vào thành, đồng bào lần lần giải tán.

Cũi vừa qua khỏi cửa thành, cánh cửa chưa kịp đóng Tây Sơn Vương liền mở cũi nhảy ra, rút kiếm dấu sẵn trong người, chém chết viên đội trưởng giữ cửa, tám nghĩa quân khiêng cũi, lớp côn lớp quyền, đánh tan toán giữ cửa, mở rộng cửa thành và đốt pháo hiệu truyền lệnh... Nghĩa quân do Nhưng Huy và Tứ Linh điều khiển và những người cầm vũ khí khi bị tuần Tuyên cản không cho vào c̣n đứng đợi trước thành ngheo pháo lệnh, liền kéo ùa vào thành một cách thần tốc, vừa chạy vừa reo ḥ. Tuần Tuyên khiếp đảm, dắt gia đ́nh lẻn ra cửa sau chạy trốn. Quân lính và quan lại trong thành như rắn không đầu, đều quy hàng Tây Sơn Vương.

Kế đó quân Trần Quang Diệu và chư tướng lần lượt kéo tới, lớp vào thành, lớp đóng giữ bên ngoài pḥng việc bất trắc[20].

Tây Sơn Vương giao thành cho Trần Quang Diệu và các tướng đóng giữ, tự ḿnh đem hai quân đoàn xuống Càng Rang, Nước Ngọt, đánh lấy hai kho lương thực. Hai viên quan giữ kho là Đốc Trưng Đằng và Khâm Sai Lượng chống cự. Lượng bị giết, Đằng tẩu thoát. Vương cho chở hết lương thực về thành Quy Nhơn.

Thành Quy Nhơn hạ xong, địa phận phủ Quy Nhơn từ nguồn chí bể thuộc về nhà Tây Sơn. Tháo được ách tham quan Nguyễn Khắc Tuyên, người người đều hoan hỷ và đều nguyện một ḷng trung thành cùng Tây Sơn Vương.

Tây Sơn Vương dùng thành Quy Nhơn làm căn bản. Ngọn cờ đào thêu kim tuyến bay phất phới trên kỳ đài, hiên ngang rực rỡ.

Mọi việc về quân sự dân sự đều được sắp xếp lại. Quân chia làm năm đồn Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu do các Đô Đốc chỉ huy. Lính cũ của chúa Nguyễn xin ở lại đều được sắp xếp vào hàng ngũ theo cấp bậc đă có trước. Người nào muốn xin về th́ cho về không điều kiện.

Các quan lại đầu hàng đều được giữ nguyên chức vụ, nhưng thuộc quyền điều khiển của các Đại Học Sĩ Tây Sơn.

Các huyện lỵ Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn, mỗi huyện có một Đề Đốc và một học sĩ quản lư.

Mặc dù thành Quy Nhơn đă trở thành căn cứ chiến đấu, chiến khu Tây Sơn vẫn giữ y nguyên và vẫn tiếp tục phát triển kinh tế và quân sự.

An ninh và trật tự trong toàn phủ được giữ ǵn chu đáo. Không một vụ lộn xộn xảy ra trong lúc giao thừa. Sắp xếp xong mọi việc trọng yếu, Tây Sơn Vương chuẩn bị mở rộng phạm vi Quy Nhơn về mặt Nam, mặt Bắc.

 

ANH HÙNG NGHĨA SĨ

GIÚP NHÀ TÂY SƠN DỰNG NGHIỆP

 

Vừa dựng cờ khởi nghĩa, nhà Tây Sơn đă được nhiều anh hùng nghĩa sĩ xa gần pḥ tá. Bên vơ có:

- Vơ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu được anh em Tây Sơn Vương coi như cật ruột.

- Nguyễn Văn Tuyết, Vơ Đ́nh Tú, Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Hưng được coi như tay chân.

- Nhưng Huy và Tứ Linh là hai tay lục lâm mới quy thuận, ḷng dạ chưa lường được, nhưng vơ nghệ cao cường, nên vẫn được trọng dụng.

Tất cả đều là tướng tài. Mỗi người có một môn sở trường vô địch.

* Vơ Văn Dũng người thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn (B́nh Khê). Nhà giàu. Rước thầy về học văn học vơ, từ nhỏ đến lớn. Học văn th́ tối. C̣n học vơ th́ dạy đâu nhớ đó, mỗi năm phải rước một thầy mới để thay.

Đến 20 tuổi theo người buôn ngựa vào Phú Yên. Duyên may gặp được lăo trượng họ Lương gịng dơi Lương Văn Chánh ở Tuy Ḥa, dạy cho môn trường kiếm và môn đoản đao, dạy cách đánh trên đất, cách đánh ngựa, lúc dùng một món, lúc dùng cả đôi. Về nhà Vơ Văn Dũng tập luyện ngót năm năm trời mới thành thục. Nhớ lời thầy dặn Học vơ là để pḥng thân và dẹp nỗi bất b́nh khi gặp, chớ không phải để đấu sức khoe tài. Vơ giấu kín nghề riêng. Cho nên ngoài Nguyễn Nhạc là bạn cố giao, khách vơ lâm không mấy ai biết Vơ thuộc hàng cao thủ.

* Bùi Thị Xuân con của Bùi Đắc Chí gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Ḥa, một thôn nằm về phía đông Phú Phong [21], vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp. Nữ công khéo, chữ viết đẹp. Nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng. C̣n những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi th́ Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học, thường mặc áo con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc. Cha mẹ chiều con, không nỡ lời trách cứ. C̣n tiếng chê khen của người ngoài th́ Bùi Thị Xuân không bận tâm.

Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Một hôm anh em giễu cợt ra cho nhau câu đối:

Ngoài trai trong gái, dưa cải dưa môn.

Có người đối:

Đứng xuân ngồi thung, lá vông lá chóc

Rồi vỗ tay cười ầm!

Bùi Thị Xuân cả thẹn, vùng quyền đánh vào mặt hai người sanh sự, rồi trở về nhà. Từ ấy bỏ học chữ. Ở nhà chuyên học vơ.

Trước kia không biết Bùi Thị Xuân học vơ với ai và học vào lúc nào. Nhưng từ khi bỏ học văn th́ đêm đêm có một lăo bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ nhất th́ bà lăo lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lăo cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao th́ cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ, rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân không. C̣n nhảy xa th́ ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Đêm học ngày tập. Đến 15 tuổi th́ tài nghệ đă điêu luyện.

Một hôm bà lăo đến, cầm tay Bùi Thị Xuân khóc và nói:

- Ta có duyên cùng con chỉ bấy nhiêu. Đêm nay ta đến từ biệt con. Bùi Thị Xuân khóc theo và nài nỉ xin cho biết tánh danh và quê quán. Bà lăo đáp:

- Ta ở gần đây. Trong ba hôm nữa con sẽ biết tin tức. Nhưng con phải giữ bí mật. Nói rồi, vụt một cái biến mất.

Ba hôm sau, ở thôn An Vinh [22] có một đám ma của một bà lăo.

Bà lăo nhà nghèo, góa bụa, sống với vợ chồng người con gái làm nghề nông. Khi Bùi Thị Xuân được tin, t́m đến th́ việc chôn cất đă xong. Biết bà lăo đây chính là thầy ḿnh, nhưng nhớ lời thầy dặn, chỉ điếu tang như một người thường. Về nhà mới đợi lúc khuya vắng, thiết hương án nơi vườn dạy vơ mà thành phục. Nhưng chỉ để tâm tang.

Từ ấy một ḿnh tự tập luyện.

Một hôm Bùi Thị Xuân ở ngoài về, t́nh cờ thấy đứa ở gái dùng hai chiếc đũa bếp làm kiếm múa. Múa đúng bài bản phép tắc. Bùi Thị Xuân giật ḿnh! Té ra cô ả ngày ngày thấy tiểu chủ múa kiếm, bắt chước múa theo, lâu thành quen tay. Đợi cô ả múa hết bài, Bùi Thị Xuân chạy đến ôm chầm, và khen Em giỏi, em giỏi lắm.

Từ ấy cho cô ả dùng gươm thiệt mà tập. Lại rủ chị em trong xóm ai muốn học vơ học kiếm th́ ban đêm rảnh việc đến nhà, Bùi Thị Xuân dạy cho. Không mấy lúc nhà họ Bùi trở thành trường dạy vơ. Đệ tử từ năm ba người trong xóm vụt nhảy lên hàng chục hàng vài ba chục... Một số người người tuy đă có con tay dắt tay bồng, mà cũng đến xin học. Tài nghệ đă tinh mà cách đối xử cách dạy dỗ lại đứng đắn, nên Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quư trọng. Trong số đệ tử xuất sắc có bà Bùi Thị Nhạn.

Một phú ông họ Đinh ở Lai Nghi, để đền ơn dạy con gái, tặng Bùi Thị Xuân một con ngựa trắng toàn sắc mới tập kiều, vóc to, sức mạnh, chạy hay. Bùi Thị Xuân tập ngựa trở thành một chiến mă, chạy suốt buổi không đổ mồ hôi[23].

Lại một hôm, lên chợ Phú Phong, Bùi Thị Xuân thấy hai thớt voi đứng ăn chuối cây. Chung quanh, người vây đông đúc, Bùi Thị Xuân chen đến gần. Voi lấy ṿi cạ lên lưng, lên vai, có vẻ tŕu mến. Bùi Thị Xuân xin cỡi thử. Voi co một chân trước cho Bùi Thị Xuân leo lên cổ, rồi đi tới đi lui theo sự điều khiển của Bùi. Hết thớt này đến thớt kia, Bùi Thị Xuân nhận thấy điều khiển voi c̣n có phần dễ hơn điều khiển ngựa. Từ ấy cái chí muốn làm bà Trưng bà Triệu lúc nhỏ trở lại nung nấu tâm hồn. Bùi Thị Xuân lo tập luyện cho ḿnh, cho chị em trong xóm, trong làng. Tiếng đồn đi xa, chị em các làng khác các huyện khác cũng t́m đến xin thụ giáo. Bùi Thị Xuân ước có tiền mua ngựa, voi cho chị em tập. Gia đ́nh chỉ vào hàng khá giả, nên dù thương chiều con, cũng không sao có thể làm vui ḷng con.

Bùi Thị Xuân càng lớn lên càng xinh đẹp. Khách rắp ranh bắn sẻ, ngấp nghé trông sao ở gần có ở xa có, ngày nào cũng có người đến sân. Nhưng phần đông hễ thấy mặt Bùi Thị Xuân th́ run như run thần tử thấy long nhan, v́ trong vẻ đẹp kiều diễm của Bùi Thị Xuân lại có vẻ uy nghiêm. Đôi mắt ngước lên nh́n như đôi lằn điện chiếu[24]. Những chàng trai nhát gan th́ vừa đến sân đă lùi ra khỏi ngơ. C̣n những chàng trai có nhiều ít đởm lực th́ bước vào thềm. Nhưng mới bị hỏi sơ vài câu về vơ về văn th́ lưỡi tự nhiên cứng lại. V́ vậy cho đến hai mươi tuổi mà Bùi Thị Xuân tay không chân rồi. Thời xưa, con gái mười bảy, mười tám tuổi mà chưa có chồng th́ cha mẹ rất lấy làm lo. Nhà họ Bùi cũng thế. Một hôm bà mẹ tỏ ư lo ngại cùng con. Bùi Thị Xuân cười:

- Bà Trưng có chồng, bà Triệu đâu có chồng. Nhưng ai dám cười chê ?

Để giúp gia đ́nh mà cũng để thết đăi chị em học tṛ, Bùi Thị Xuân thường đi săn heo săn nai.

Một hôm cùng vài cô học tṛ đi săn ở vùng núi Thuận Ninh[25], xảy gặp một tráng sĩ đương đánh cùng một mănh hổ. Tráng sĩ ḿnh đầy máu me, sức đă sắp đuối. Hổ hung hăng chụp vấu. Bùi Thị Xuân hét lên một tiếng, rút song kiếm xáp vào cứu tráng sĩ. Hổ bỏ tráng sĩ, đánh cùng Bùi Thị Xuân. Hổ đă lanh, tránh khỏi những nhát kiếm hiểm độc, Bùi Thị Xuân lại càng lanh hơn, tránh khỏi những cái vồ như băo như chớp, khiến mấy phen hổ chụp hụt bị té nhào. Hổ cự địch với tráng sĩ đă lâu, sức đă mỏi, nên động tác chậm dần. Cuối cùng bị một nhát kiếm nơi vai, gầm lên một tiếng bỏ chạy.

Bùi Thị Xuân trở lại băng bó cho tráng sĩ.

Hỏi tên. Đáp:

- Trần Quang Diệu.

* Trần Quang Diệu quê quán ở Ân Tín, huyện Hoài Ân[26]. Nhà giàu nhưng mồ côi sớm, thân tự lập thân.

Lúc nhỏ, Trần học văn học vơ nhiều thầy. Lớn lên, một hôm vào dăy núi Kim Sơn[27] kiếm thịt, t́nh cờ thấy một ông lăo nằm giỡn cùng một con cọp tàu cau to lớn. Hổ trông thấy Trần th́ nhảy đến vồ. Trần tránh khỏi. Hổ vồ tiếp. Ông lăo liền hét: Hổ dại nhé. Hổ liền ngoan ngoăn trở lại cùng ông lăo. Ông lăo gọi Trần đến gần, hỏi:

- Người là ai, chẳng biết nơi này có ổ cọp sao mà dám đưa thân tới?

Trần thật thà kể hết gia cảnh và thân phận. Đoạn lạy ông lăo xin cho ḿnh làm học tṛ.

Ông lăo đáp:

- Âu cũng là duyên.

Rồi bảo Trần về thu xếp việc nhà rồi trở lên.

Trần về giao nhà cửa ruộng nương cho người em thúc bá, và dặn:

- Ta đi chuyến này, mau th́ năm năm, lâu th́ mười năm mới về. Ở nhà lo làm ăn tử tế. Đừng t́m hiểu ta đi đâu và đi có việc ǵ.

Lên Kim Sơn, Trần được lăo nhân đưa về nhà nuôi dạy.

Lăo nhân là ai ? Lăo họ Diệp, tên là Đ́nh Ṭng, người thôn Vĩnh Thạnh, huyện Tuy Viễn (B́nh Khê). Lúc tráng niên đă xuống tay giết chết tên tri huyện tham ô thời chúa Nguyễn Phúc Khoát(1738-1765). Bị truy nă, cụ đem vợ con theo đường núi ra Kim Sơn lánh nạn. Trên hai mươi năm trời, không ai biết tung tích. Vợ con không chịu nổi sơn lam chướng khí, lần lượt qua đời hết, chỉ c̣n ḿnh cụ sống với hùm beo. Gặp được họ Trần, cụ vô cùng hoan hỷ.

Hai thầy tṛ sống trong ba gian nhà tranh rộng răi sạch sẽ. Có đủ đồ cần dùng cho một gia đ́nh nho nhỏ. Lại có đủ năm món vũ khí: đao, kiếm, côn, thương, cung, mỗi thứ mỗi cặp. Thứ nào cũng được lau chùi bóng nhoáng. Nhưng Trần chỉ học môn đại đao.

Thầy hết ḷng dạy. Tṛ cố sức học. Khi luyện tập một ḿnh, khi cùng thầy thao diễn, khi nơi đất bằng, khi trên đá núi. Học tập cách đánh trên ngựa, cách đánh dưới thuyền. Không có ngựa, phải lấy đá làm ngựa. Không có thuyền th́ lấy những khúc gỗ tṛn làm thuyền.

Những lúc không tập luyện th́ lo trồng trỉa săn bắn để sống. Thầy tṛ sống một cách thích thú, ung dung. Nhưng có một điều làm cho Trần áy náy, là con hổ của thầy hễ thấy bóng Trần là bỏ chạy nơi khác. Biết ư nên khi thấy hổ ở bên cạnh thầy th́ Trần cũng khéo léo tránh mặt. Ban đầu c̣n thắc mắc, lâu ngày thành thói quen.

Thấm thoát đă năm năm qua!

Một hôm, lăo nhân trao đại đao ḿnh thường dùng cho Trần và bảo:

- Đây là thanh Huỳnh Long bảo đao sản xuất từ đời Trần. Ta tặng con làm kỷ niệm.

Đoạn sai Trần thu tất cả các món vũ khí đem chôn nơi một cái hố phía sau nhà. Rồi bảo:

- Thầy đă gần trăm tuổi rồi. Bấy lâu c̣n phải sống là v́ đao pháp của thầy chưa có người kế tập. Nay thầy đă truyền thụ cho con rồi, th́ thầy chết được vui vẻ. Sau khi chôn cất thầy xong con không nên quyến luyến nơi này. Con nên kíp xuống núi, đem sở học làm sở hành, để khỏi phí cuộc đời anh tuấn. Và nếu có dịp đi ngang qua Vĩnh Thạnh th́ hỏi thăm xem họ Diệp có c̣n ai không. Nếu c̣n th́ con sẽ cho biết qua tin tức của thầy. Nhưng đó không phải là điều cần thiết.

Nói xong, nằm xuống, lấy tay đánh nhẹ lên đỉnh đầu mà tắt nghỉ. Buồn thương khôn tả! Trần về nhà, cửa nhà yên vui, hai hôm sau cắp đao băng núi đến Vĩnh Thạnh.

Nghe tin Nguyễn Nhạc mở ṣng bạc lớn ở Kiên Mỹ, Trần nghĩ bụng: