Phận Mệnh Sách Vở

Viết Về Nhà Tây Sơn

 

Bà thân tôi thuộc sử Tây Sơn như các nhà Nho thuộc sử Hán, Đường. Đó là nhờ trong Từ đường họ Quách có hai bộ sử chép tay về nhà Tây Sơn, Tây Sơn Dă sử và Tây Sơn Liệt truyện.

Hai bộ sách này là sách cấm. Lúc ông nội tôi c̣n sống th́ ông giữ. Trừ ông thân bà thân và các bác tôi ra, không ai được mượn đọc. Ông nội tôi qua đời, sách vở đều dồn về Từ đường. Hai bộ sử ấy cũng được ông bác ở Từ đường là bác Quách Lư Đạo cất giấu cẩn thận.
Khoảng đầu thập niên 1920, sợ sách để lâu ngày bị mối mọt, bác tôi đem tất cả sách treo trên các giá trong nhà lẫm ra phơi. T́nh cờ một ông khách đến chơi. Ông khách là người quen tên Mạc Viên tục gọi là Xă Suyền ở thôn Kiên Mỹ. Từ đường họ Quách ở Thuận Nghĩa nằm về phía đông Kiên Mỹ, cho nên Xă Suyền cùng bác tôi thường qua lại với nhau. Thấy bác tôi đương trở sách, Xă Suyền bèn giúp tay. Trông thấy hai bộ sử Tây Sơn, Xă Suyền hỏi mượn. Bác tôi t́m lời thoái thác. Xă Suyền giận dữ nói:

- Đồ hung của dữ đó quư báu ǵ mà làm bộ! Đoạn bỏ ra về.

Mấy hôm sau viên tri huyện B́nh Khê là Hoàng Yến cỡi ngựa xuống Từ đường họ Quách, 1 tên lính đánh trống cán đi trước, 1 tên lính nữa cầm hèo tua theo sau. Không biết việc ǵ mà quan đến nhà, bác tôi hết sức lo sợ.        Quan vào nhà, đăi trà không uống, đăi rượu không uống, nghiêm nghị nói:

- Nhà ông có hai bộ sử Tây Sơn, tôi muốn mượn xem ít hôm có được chăng? Bác tôi rụng rời chân tay! Đứng sững không mở miệng được! Quan thét:

- Sao không đáp? Vào lấy ra đây. Mau! Như một cái máy, bác tôi vào lấy hai bộ sách ra, hai tay dâng lên, cả ḿnh run lẩy bẩy, áo ướt đầm mồ hôi. Hoàng Yến lấy sách, không nói không rằng, bước lên ngựa ra về, trống cán đi trước, hèo tua theo sau, thái độ hách dịch.
Lúc bấy giờ ông thân tôi làm việc ở hăng dệt Délignon ở Phú Phong. Bác tôi liền đến cầu cứu. Qua thái độ và hành động của viên tri huyện, ông thân tôi đoán biết rằng y viên chỉ muốn làm tiền chớ không cố ư làm hại. Sau khi thảo luận cùng bác tôi, nên lấy của che thân, bác tôi liền đi nhờ tay chuyên môn lo thu xếp công việc.

Quan đ̣i 2 cây bạc, tức 100 đồng bạc Đông Dương.Bác tôi phải bán ruộng..., việc mới yên.

Năm 1947, tôi gặp ông Hoàng Yến trong một cuộc hội nghị Liên Hiệp Quốc Dân tại B́nh Khê. Tôi có hỏi thăm về hai bộ sử ấy. Ông đáp:

Lâu quá ai nhớ được. Mà giữ làm ǵ những thứ sách ấy.Hoàng Yến là một người có học, bên chữ Hán đậu Phó Bảng, bên chữ Pháp đậu bằng Cao đẳng Tiểu học (Primaire supérieur), mà không biết quư sách, đối với tôi thật là một điều bất ngờ! Cũng may không phải là người B́nh Định.

Trong thập niên 1960, sau ngày Đền Tây Sơn được nhân dân B́nh Khê xây cất xong, Hồ Hữu Tường ra dự lễ lạc thành, có t́m được một bộ Tây Sơn Dă Sử ở Cây Da Tuy Phước. Tôi nghe nói, muốn t́m họ Hồ để xem thử phải bộ sách của Từ đường họ Quách chăng, nhưng chưa có dịp. Không biết bộ sách ấy hiện nay có c̣n chăng và nằm vào tay ai. Ngoài hai bộ Tây Sơn Dă Sử, Tây Sơn Liệt Truyện, khuyết danh tác giả, B́nh Định c̣n có:

- Cân Quắc Anh Hùng truyện của cụ Nguyễn Bá Huân.
- Tây Sơn Văn Thần truyện của cụ Nguyễn Bá Huân.
- Tây Sơn Lương Tướng truyện của cụ Nguyễn Trọng Tŕ.
- Tây Sơn Danh Tướng Chinh Nam truyện của cụ Nguyễn Trọng Tŕ.
- Ngụy Triều Chư Tướng truyện của cụ Nguyễn Khuê.

Các tác giả đều là người trong một nhà ở Vân Sơn huyện An Nhơn, tỉnh B́nh Định. Cụ Nguyễn Khuê đậu ba khoa tú tài thời Minh Mạng, Thiệu Trị, hay chữ nổi tiếng. Cụ Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Tŕ là con, đều học cụ mà thi đậu Cử nhân dưới triều Tự Đức.

Cụ Tú Khuê soạn Ngụy Triều Chư Tướng truyện, cụ Nguyễn Trọng Tŕ (tục gọi là cụ Nghè Tŕ, v́ cụ có làm việc ở nội các cuối triều Tự Đức) bảo: Tây Sơn há phải là ngụy triều hay sao?. Bởi thế cụ mới soạn tập Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện, chép kỹ hành trạng các tướng tài đă giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp.

C̣n Cân Quắc Anh Hùng Truyện và Tây Sơn Danh Tướng Chinh Nam của cụ Huân và cụ Tŕ ghi chép sự tích Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng. Hai tập ấy bổ khuyết tập Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện v́ trong tập này không nói đến chiến công của ba tướng họ Bùi, họ Trần, họ Vơ.

Những bộ sách nói trên, sau khi các tác giả qua đời, đều giao cho bà Tú Năm con gái cụ Nghè Nguyễn Trọng Tŕ, làm dâu nhà họ Đào ở Phú Phong (B́nh Khê) giữ. Nhưng thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954), ở Phú Phong thường bị tản cư v́ giặc ở An Khê thường xuống phá rối, bà Tú bèn đem về Vân Sơn những bộ sử ấy và hơn 100 vở tuồng hát bội do cụ Nghè sưu tầm có, do cụ sáng tác có, giao lại cho người con trai cụ Nghè là ông Tám Chu (em ruột bà Tú) để tránh nạn binh hỏa. Ai ngờ...! Lúc bấy giờ đương lúc khan giấy hút thuốc, ông Tám Chu, người vô học, lần lượt xé quấn thuốc và bán cho người quấn thuốc sạch trơn! Tránh lửa binh gặp lửa thuốc! Lửa tàn bạo cũng như lửa ngu dốt đều là con cháu của lửa Tần.

Nhưng văn chương chưa đến nỗi vô mệnh: Gần đây có người t́m thấy tại nhà của vơ sư Hồ Ngạnh - một tay vô địch về roi ở B́nh Khê, sau khi họ Hồ tạ thế - một ḥm sách chữ Hán, trong đó có một số sách của họ Nguyễn Vân Sơn, như Tây Sơn Văn Thần truyện, Tây Sơn Lương Tướng truyện... Song sách vừa bước chân đến Quy Nhơn liền gặp rủi, phải trở vào danh sơn để đợi người tri kỷ.

Hùng khí Tây Sơn vẫn c̣n.

Mùa hoa sen Ất Sửu (1985)

QUÁCH TẤN

ẢNH HƯỞNG TÂY SƠN

TRONG GIA Đ̀NH HỌ QUÁCH

 

Ông thân tôi, Quách Phương Xuân, thông Pháp văn (đậu bằng Thành Chung - Primaire Complémentaire) nhưng chỉ đọc được viết được chữ Hán. C̣n bà thân tôi lại giỏi chữ Hán và chỉ biết đọc biết viết chữ Quốc ngữ. Tánh hai ông bà tương phản. Bà thân tôi th́ nghiêm nghị. Ông thân tôi lại ưa hài hước, mọi việc trên đời không coi việc ǵ là quan trọng, cả đến cái CHẾT.

Tôi lại có 3 ông cậu rất yêu quư ông thân bà thân tôi:

- Cậu chánh tổng Trần Trác, con trưởng bác ruột của bà thân tôi.

- Cậu tú Trần Khương, em ruột cậu Chánh.

- Cậu cửu Đoàn Nhuận, anh con bà cô ruột của bà thân tôi.

Ba cậu chỉ hơn kém ông thân tôi một vài tuổi và đều ở Trường Định. Những lúc rảnh rang ba cậu thường đến chuyện tṛ cùng hai thân tôi. V́ từ nhỏ đến lớn ba cậu lo học để đi thi, sử chỉ đọc Hán, Đường, chớ không thông sử Việt Nam, nhất là sử Tây Sơn, khi nói chuyện thường bị bà thân tôi đả kích. Nhưng ba cậu tánh hiền lành lại thương em, nên không bao giờ giận. ột hôm nhân bàn về nhà Tây Sơn, ông thân tôi nói:

- Sự nghiệp nhà Tây Sơn nay không c̣n ǵ hết. Vua Quang Trung c̣n để lại được tiếng Anh Hùng Áo Vải. Vua Thái Đức c̣n để lại được câu nói chí t́nh B́ oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn.

Lúc ấy có đủ ba cậu tôi. Tuy ngồi chung với nhau một chiếu, song giữa cậu Chánh và cậu Tú có điều xích mích nhau v́ binh vợ mà đầu mối bất ḥa là do mợ Chánh gây ra. Nhân đó bà thân tôi bèn diễn nôm lời nói của Vua Thái Đức:

Lỗi lầm anh vẫn là anh Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em.Vừa dịch vừa khóc. Ông thân tôi cùng ba cậu cũng khóc theo. Từ đó gia đ́nh cậu Chánh và cậu Tú trở lại ḥa thuận như cũ. à câu Nồi da xáo thịt trở thành câu hát ru con của những bà mẹ hiền trong thôn Trường Định.


*
*      *

Lại một hôm, vào khoảng giữa năm 1926, bà thân tôi đ̣i cắt lưỡi em tôi là Quách Tạo. guyên năm ấy Tạo vừa đậu Primaire, được bà thân tôi rất chiều. Tạo nằm nơi giường kê gần cửa sổ nhà dưới, hát nghêu ngao những câu hát trong tuồng Vơ Tánh Tự Thiêu mà nhà trường Quy Nhơn tổ chức để lấy tiền cứu tế. Tạo hát đến câu: ...Lũ Tây Sơn muông cẩu... th́ th́nh ĺnh nghe tiếng bà thân tôi gọi một cách giận dữ:

- Hỷ, le cái lưỡi tao coi[104]. Tạo giật ḿnh quay lại. Bà thân tôi đương ngồi vá áo nơi góc giường, ngừng tay nh́n Tạo một cách nghiêm nghị. Trước đôi mắt nghiêm lẫn giận của mẹ, Tạo cảm thấy rờn rợn, nhưng không hiểu duyên do, c̣n đương ngơ ngác, th́ bà xẵng giọng nhắc:

- Le lưỡi ra.

Tạo vội ngồi dậy, lè lưỡi. Bà đưa một tay chụp lưỡi Tạo, một tay chụp cây kéo làm cách chụp lưỡi để cắt. Tạo hết hồn vội bước xuống giường. Bà hét:

- Tao cắt lưỡi mầy đi! Ai dạy mầy hát như vậy? Tạo lúc bấy giờ mới 14 tuổi, sợ quá ̣a lên khóc, rồi thưa:

- Đó là bài hát cải lương, các anh lớn ở trường hát cứu tế. Bà trừng mắt nói:

- Ai hát mặc nẫu, mầy không được bắt chước. Tao c̣n nghe câu hát đó, tao cắt lưỡi đi. Không hiểu tại sao hát câu đó lại làm cho mẹ giận, nhưng không dám hỏi, mà cũng không dám hát nữa dù là hát một ḿnh. Măi khi lớn lên, biết rơ lịch sử nước nhà, mới hiểu được tấm ḷng tôn kính tuyệt đối của bà thân tôi cũng như của phụ huynh B́nh Khê đối với Tây Sơn Tam Kiệt, và mới thấy rơ ḿnh đă vô t́nh và ngu dốt xúc phạm một cách thô bạo như thế nào!


*
*    *

Cậu tú Trần Khương mượn được một quyển sử nói về triều Nguyễn, đọc xong nói chuyện cùng hai cậu và hai thân tôi. Trong khi nói chuyện, cậu Tú theo sách gọi Gia Long bằng Đức Thế Tổ và gọi ba Vua Tây Sơn là Ngụy Tây. Bà thân tôi phản đối:

- Nguyễn Ánh th́ gọi là Nguyễn Ánh, có kính nể lắm th́ gọi là Gia Long, chớ sao lại gọi Đức Thế Tổ? C̣n NGỤY là cái ǵ? Cậu Tú thất kinh, đương ngồi trên phản liền nhảy xuống đất chạy bụm miệng bà thân tôi:

- Vách có tai, ở tù mọt gông, cô ơi! Thái độ cậu tôi làm cho bà thân tôi bật cười. Ông thân tôi cũng cười:

- Nhà tôi tuổi tư mà lại gan hùm, c̣n anh tú tên Khương nên thích yên ổn. Như thế là vui. Nhân nhà tôi đă hỏi Ngụy là ǵ, th́ chúng ta thử bàn xem. Ba Vua Tây Sơn có phải là Ngụy chăng.

Cậu cửu Đoàn Nhuận nói:

- Được làm vua thua làm giặc. Giặc là Ngụy. Nhà Nguyễn được, nhà Tây Sơn thua, th́ nhà Nguyễn gọi nhà Tây Sơn là Ngụy là phải rồi. Bà thân tôi bẻ:

- Chúng ta có phải nhà Nguyễn đâu mà cũng gọi nhà Tây Sơn là Ngụy Tây?  Cậu chánh Trần Trác nói:

- Th́ ăn cây nào rào cây nấy chứ. Bà thân tôi đáp:

- Chúng ta có ăn cây nào của nhà Nguyễn đâu mà lo rào? Cậu Chánh có ư bất b́nh:

- Đất của Vua chùa của làng, cây nào mọc trên đất này lại không phải là cây nhà Nguyễn . Ông thân tôi giảng ḥa:

- Bàn để cho vỡ lẽ chớ không phải để tranh hơn thua. Chúng ta hăy dựa vào sách vở của cố nhân để lại mà bàn cho ra chân ngụy. Cậu tú Khương nói:

- Thầy Thông[105] luận như vậy rất hợp ư tôi. Xin thầy nói tiếp. Cậu Cửu, cậu Chánh cũng biểu đồng. Ông thân tôi tiếp:

- Các sử gia Tàu cũng như ta chia các nhà vua ra Chính thống và Ngụy triều. Nhà nào có công đánh giặc dựng nước, hoặc được chính thức kế truyền, được thần dân đều tùng phục, th́ gọi là Chính thống. C̣n nhà nào làm tôi cướp ngôi vua, hay xưng đế xưng vương ở nơi núi non, rồikéo quân đánh chiếm nước..., th́ gọi là Ngụy triều. Nhà Đinh, nhà Hậu Lê đánh giặc dựng nghiệp, nhà Lư, nhà Trần được truyền ngôi, sử gọi là Chính thống. Họ Hồ họ Mạc soán đoạt ngôi nhà Trần, nhà Lê th́ gọi là Ngụy triều. C̣n nhà Tây Sơn diệt bọn tham ô của Trịnh, Nguyễn để cứu dân, đánh đuổi quân Xiêm trong Nam, đánh đuổi quân Tàu ngoài Bắc, cứu nước ra khỏi nạn xâm lăng, rồi lên làm vua, thống nhất đất nước, từ Bắc đến Nam đều thần phục. Như thế sao gọi là Ngụy? Đến như Nguyễn Phúc Ánh v́ quyền lợi riêng, đă rước voi Xiêm, rồi cơng rắn Pháp về dày xéo quê cha đất tổ. Như thế đối với dân tộc Việt Nam có công hay có tội, mà chúng ta phải tôn thờ? Ba cậu tôi vốn là người có học thức nên lẽ phải dễ lọt tai thấm ḷng. Từ ấy đối với nhà Tây Sơn rất mực tôn kính. Ḷng tôn kính lại càng tăng càng vững sau khi bà thân tôi cho biết thêm rằng họ Trần có nhiều người ra pḥ nhà Tây Sơn lập được công lớn. Một vị chết chôn tại G̣ Xoài ở đầu thôn Trường Định. Ngôi mộ bằng vôi to lớn và rất kiên cố. Có bia đá xanh ghi đủ tên họ chức tước, nhưng khi nhà Tây Sơn bị dứt th́ phá bia cũ thay bia mới, lấy tên bà họ Mạc để tránh sự trả thù của Gia Long. Mộ ấy hiện c̣n, và Từ đường cao của họ Trần lo việc giỗ chạp.


*
*    *

- Bà thân tôi hết ḷng kính phục Vua Quang Trung, nhưng có lần nói cùng ông thân tôi và ba cậu:

- Vua Quang Trung có công lớn trong việc dựng nước, song cũng có phần trách nhiệm trong việc mất nước. Ba cậu tôi, cả ông thân tôi đều ngạc nhiên, v́ xưa nay chưa nghe ai nói. Bà thân tôi tiếp:

- Nếu Vua Quang Trung đừng nghe lời bà họ Bùi truất ngôi Thái tử của con trưởng ḍng đích là Nguyễn Quang Thùy đă được Vua Càn Long phong Thế tử, th́ ngôi cửu ngũ đâu có lọt vào tay Nguyễn Quang Toản con ḍng kế, mới 13 tuổi, khiến sanh việc lủng củng trong triều, làm cho thế nước mỗi ngày một yếu. Tiếp đến việc cháu giết bác để cướp đất đai làm cho môi hở răng lạnh. Ông thân tôi khen là một khám phá mới. Nhưng ba cậu tôi nói:

- Mất nước là cơ trời. Nguyễn Quang Thùy lên ngôi chưa chắc đă giữ nước khỏi lọt vào tay nhà Nguyễn. Bà thân tôi căi:

- Ư dân là ư trời. Nguyễn Quang Toản quá trẻ không phân được phải quấy, nghe lời bọn nịnh thần làm mất ḷng dân, nên khi Phúc Ánh đánh mạnh, phía Tây Sơn không được dân ủng hộ, tức là Trời không thương. C̣n Nguyễn Quang Thùy khi Vua Quang Trung băng th́ đă 23, 24 tuổi và đă từng tham dự việc quân việc dân. Lại là người có đức. Bằng cớ:

+ Khi có người cho biết rằng vua cha đă đưa em ḿnh lên ngôi Thái tử thay ḿnh th́ thản nhiên đáp: Tôi lên ngôi hay em tôi lên ngôi cũng thế thôi. miễn sao nước thạnh vượng, nhà được vững bền là được. Bá Di, Thúc Tề ngày xưa cũng không hơn.

+ Khi vua cha thăng hà, pḥ vua em vẫn hết ḷng hết sức.       

Đến lúc sa cơ th́ tuẫn tiết chớ không như Nguyễn Quang Toản cam chịu nhục dưới tay quân thù. Nếu Vua Quang Trung để cho Nguyễn Quang Thùy nối ngôi th́ Bùi Đắc Tuyên đâu có cơ hội làm mưa làm gió, đâu có việc công thần sát hại lẫn nhau, đâu có việc Lê Trung bị giết oan, Lê Chất bỏ Tây Sơn đem những cơ mật trong thủy quân vào nói hết cho Phúc Ánh biết, đâu có chuyện bọn tham quan ô lại thừa cơ cấp trên lộn xộn mà ra tay bóc lột nhân dân...

Cậu Tú và cậu Cửu mất trước ông thân tôi năm 1923, trước sau mấy tháng. Khi tôi khôn lớn, bà thân tôi thường đem sự tích nhà Tây Sơn kể cho tôi và em tôi nghe. Và sau khi bà thân tôi qua đời (1928), gặp tôi cậu Chánh và người em rể của cậu là dượng Bùi Sơn Nhi ở thôn Xuân Ḥa (B́nh Khê) thường nhắc nhở đến bà và hết lời ca tụng[106]. Những lời b́nh luận của bà thân tôi về nhà Tây Sơn thường được cậu Trần Trác và dượng Bùi Sơn Nhi đem ra làm giai thoại.


Mùa hoa sen Ất Sửu (1985)

QUÁCH TẤN

Kỳ Đồng  14-8-84

 

Mới cách đây 4-5 ngày, tôi nhận được tập Nhà Tây Sơn, trên 10 bài H.P.N.H, 1 bức thư chung cho tôi và Giản             Chi với một bức thư riêng cho G.C.... Xin thưa anh rơ kẻo anh mong: Tôi ở đây đă tháng rưỡi, uống thuốc Tây thuốc Bắc mà không thấy khá: Cứ trị được chứng này nó lại sanh chứng khác, ngủ kém, ngại vận động, cứ suốt ngày nằm dài, phải tạ khách v́ nói chuyện lâu th́ mệt... Không biết tôi c̣n phải trị bao lâu nữa.

Nhà tôi th́ cũng phải đi Y Dược Học Dân Tộc để họ trị cho chứng huyết áp cao... Nhà th́ không có ai mà hai vợ chồng đồng đau, thật lúng túng... Đau th́ đau, tôi cũng ráng đọc cho hết

- nếu không th́ không yên ḷng

- những tập của anh. Về những bài H.P.N.H. tôi chẳng thêm ư ǵ cả. Về tập Tây Sơn, tôi có đánh dấu bằng viết ch́ những chỗ đánh máy lầm, sót, chép lầm chữ Hán, và những chữ sai chính tả.

Ngoài ra tôi góp ư với anh mấy điểm này:

1. Bài tựa anh vẫn giữ trọn những ư của anh, nhưng để cậu Giao viết, kư tên th́ hơn.

2. Có nhiều bản đồ vẽ sông mà không đề tên. Ví dụ huyện Tuy Viễn, sông Côn, mà tôi không kiếm ra được sông Côn.

3. Trước khi Nguyễn Nhạc ra quân có bài Cáo với quốc dân hoặc bài hịch kể tội chúa Nguyễn không? Bài đó nhờ ông giáo Hiến làm cho được mà.

4. Cần giải thích một số chữ thổ âm như Thao Càn chẳng hạn.

5. Hai bài văn tế dài quá rồi, không cần chép thêm hai bài ngắn nữa.

6. Trang cuối, chê nhà Nguyễn đúng đấy, nhưng nên nương tay với họ một chút, đừng đạp thêm nữa, v́ ở trên đă đập họ nhiều quá rồi.

Tập Tây Sơn này viết kỹ lắm, nhất là:

- Nguồn gốc Tây Sơn - Chương 1

- Anh hùng nghĩa sĩ pḥ tá Tây Sơn - Chương 4

- Cảnh nứt rạn trong nhà Tây Sơn viết rất rơ

- Chương 10

- Quang Trung đại phá quân Thanh đọc thấy hồi hộp và khoái

- Chương 13

- Trần Quang Diệu đánh thành B́nh Định - Chương 20

Ḷng dân đối với nhà Tây Sơn - Chương cuối Một đặc điểm nữa là có nhiều bản đồ. Người viết có flamme. Cảm tưởng của tôi là họ Quách ở B́nh Định gần được như họ

Tô ở Tứ Xuyên (Trung Hoa). Họ Tô có 4 người nổi tiếng: Cha, 2 con trai và 1 con gái (Tiểu Muội). Họ Quách cũng có 4 nhà văn, nhà thơ: Anh, ông Tạo, cậu Giao và cháu Mộng Hoa. Một nhà 4 người có văn tài, hiếm đấy.

Mừng rằng cậu Giao hoàn thành một tác phẩm có giá trị. Chỉ buồn một nỗi là bao giờ mới in được. c̣n 4-5 tập nữa chứ?...


 
NGUYỄN HIẾN LÊ

(Thư gửi Quách Tấn, Quách Giao trích lục)


 CẢM TƯỞNG SAU KHI ĐỌC

NHÀ TÂY SƠN

Hơn mười năm nay, từ ngày tuổi lên trên nhân sinh thất thập, tôi thường buâng khuâng lo nghĩ đến lịch sử nhà Tây Sơn. Tôi sanh trưởng trên đất Tây Sơn. Từ lúc thiếu niên, tôi đă từng được nghe tiên nghiêm và các vị phụ lăo có uy danh tỉnh B́nh Định cho nghe, một cách tỷ mỷ sự tích nhà Tây Sơn, hành trạng các anh hùng nghĩa sĩ của tỉnh nhà ra pḥ tá ba vị anh hùng họ Nguyễn. Có nhiều sự kiện không thấy các quyển sử hành thế ghi chép, hoặc có ghi chép mà ghi chép trái ngược. Các cụ thường phàn nàn về việc thiếu sót và sai lạc này, song không đủ điều kiện để bổ khuyết, đính chính bằng bút mực. Tôi cũng thế. Người trước đă qua, lớp người trên 70 tuổi cũng lần lượt ra đi kẻ sau người trước. Một khi đă ra đi hết, th́ những điều được cha ông truyền lại cũng sẽ tiêu tan lần lần. Lớp thanh niên hậu học, muốn t́m, t́m đâu ra? V́ vậy mà tôi đâm lo ngại, lắm đêm không ngủ được.

May sao cháu tôi Quách Giao, đă đỡ được gánh nặng cho ḷng tôi. Đọc đi đọc lại tập nhà Tây Sơn của cháu, tôi hết sức vui mừng! Những sự kiện chính xác có sẵn trong các lịch sử thông dụng xưa nay, đă được cháu Giao thuật lại minh bạch. Những câu chuyện truyền khẩu, những đức tính tài năng, hành trạng của các vị anh hùng nghĩa sĩ pḥ tá nhà Tây Sơn đều được ghi chép kỹ lưỡng. Phối kiểm với những điều tôi đă được nghe, tôi nhận thấy không có ǵ để thêm hay bớt, hay sửa chữa. Để xác minh một lần nữa, tôi đă đi đến các huyện trong tỉnh, nhưng không t́m thêm được ǵ khác nữa, chỉ biết được rằng một số nhân vật đời Tây Sơn vẫn c̣n hậu duệ:

- Họ Vơ ở Phú Phong, B́nh Khê, tức xă B́nh Phú huyện Tây Sơn ngày nay, c̣n Vơ Cán, Vơ Thừa Khuông, Vơ Thừa Ân ở Phú Mỹ.

- Họ Bùi ở Xuân Ḥa (B́nh Khê, Tây Sơn) c̣n Bùi Gia Tưởng, Bùi Thúc Đ́nh.

- Họ Đặng ở Dơng Ḥa (B́nh Thành, Tây Sơn) c̣n Đặng Phu, Đặng Mân.

- Họ Đinh ở B́nh Nghi (Tây Sơn) c̣n Đinh Hiên.

- Họ Lê ở Kiên Dơng (B́nh Thành, Tây Sơn) trước kia có người cháu 3 đời của tướng Lê Hưng, tục gọi là Ông Dẻo. Ông Dẻo vơ giỏi, sức mạnh phi thường. Xuống thành B́nh Định thi vơ, 2 tay xách 2 quả tạ, đi quanh thành 3 ṿng, rồi ném hai quả tạ tới ngoài mức định đến hàng trăm thước. Nhưng thi mới nửa chừng cáo bệnh bỏ cuộc. Đến đời ông Dẻo th́ họ Lê đă dời nhà xuống Kiên Ngăi cách Kiên Dơng 1 thôn, thôn Kiên Luông. Nhà nghèo, ông Dẻo làm nghề đốn củi, chẻ hom, đương thúng rổ mướn cho các nhà giàu có ở các làng lân cận. Những khi vót nan chẻ hom, ông Dẻo cặp nách một tảng đá xanh vừa dài vừa rộng, đặt dưới bóng cây để ngồi làm việc và để nằm nghỉ ngơi. Cả đời không trọng vọng ai mà cũng không xem thường ai. Với ai cũng nói cười vui vẻ. Ông có người cháu nội tên Tấn, không biết vơ nhưng sức khỏe không kém ông. Ông Tấn rất ghét trộm. Hễ nghe ở đâu la ăn trộm th́ ông liền xách gậy chạy đến tiếp ứng. Kẻ trộm rất căm. Một đêm tối trời, nghe làng bên cạnh hô hoán, ông Tấn vội chạy tới th́ bị mươi người vây đánh chí tử. Từ ấy mang bệnh thổ huyết mà chết. Nếu ông c̣n sống đến nay th́ tuổi chừng trên trăm. Hiện nay không c̣n con cháu. Đó là những nhân vật ở B́nh Khê.


C̣n các vị ở các huyện khác như:

- Ngô Văn Sở ở B́nh Thạnh, huyện Tuy Phước, hiện c̣n Ngô Văn Liêm.

- Đặng Văn Long ở Cây Da (Tuy Phước) c̣n Đặng Hiếu Khẩn, Đặng Hiếu Trưng.

- Nguyễn Văn Lộc ở Kỳ Sơn không biết có phải là tiền hiền của họ Nguyễn ở Phụng Sơn chăng, v́ chưa được xem gia phả.

- Trần Quang Diệu ở Hoài Ân hiện c̣n phần mộ của các bậc tiền bối, nhưng không c̣n con cháu, hay là c̣n mà con cháu không biết đến ông tổ cao đời.

- La Xuân Kiều ở Phù Cát chỉ c̣n để lại bài thơ Vịnh Ḥn Trâu Nằm ở ngoài cửa Phù Ly.

Các nhân vật khác ở trong tỉnh B́nh Định và ở các tỉnh bạn, tôi không t́m được, không biết đâu t́m ra con cháu.

Con cháu của các anh hùng hào kiệt nhà Tây Sơn hiện c̣n và tôi được biết, không có ǵ đặc biệt đáng ghi.

V́ nạn trả thù cho chín đời của Gia Long mà những ngoại truyện, dă sử về nhà Tây Sơn, những gia phả của các họ có liên quan đến nhà Tây Sơn đều bị tiêu hủy. Những mồ mả thoát khỏi họa quật phá hầu hết đă thành mả hoang, v́ con cháu hoặc bỏ làng đi lánh nạn phương xa, hoặc sợ liên lụy không dám nh́n nhận, lâu ngày trở thành mồ vô chủ, không c̣n biết là của ai.

Do đó muốn t́m bằng chứng cụ thể cho lời xưa c̣n truyền lại, thật là thiên nan vạn nan! Những người bóng xế ngàn dâu chúng tôi, nghe truyền sao, truyền lại vậy. Cháu Quách Giao đă ghi chép trung thực mọi chi tiết cần thiết. Cháu lại ra công nghiên cứu thêm những tài liệu đă thu thập được để vừa chứng minh vừa phong phú cho những ǵ cháu đă nghe truyền lại, kể thật là công phu. Tập văn này biết đâu lại chẳng giúp cho các nhà sử học chuyên môn, khám phá thêm những điều mới mẻ, chính xác, để bổ sung, hiệu đính cho những quyển sử đă lưu hành về nhà Tây Sơn. Viết tại thôn Phú Hiệp, xă B́nh Phú, huyện Tây Sơn Mùa thu năm Giáp Tư (tháng 8 năm 1984)


 NGUYỄN ĐỒNG

(Quách Giao sao lục)

Khánh Hội, ngày 14-9-1984

Kính gởi anh Quách Trường Xuyên, Thư 23-8-84 (mang tay) của Anh, tôi đă nhận được, với đầu đủ những chương bổ sung H.P.N.H (II). Xin báo tin để Anh mừng, tôi đọc hôm đực, hôm cái, nhưng cũng đă xong tất cả những ǵ Anh gởi cho tôi, qua Lộc Đ́nh lần trước, và cụ Đồng hôm qua... Lộc Đ́nh đọc Nhà Tây Sơn của Q.G. rất kỹ, không sót chữ nào, những lỗi chính tả đều được đánh dấu ở ngoài lề hết. Duy phần chữ Hán th́ tôi phải sửa thêm. Có bài thơ viết sai cả mười mấy chữ, - những chữ tôi c̣n ngờ chưa kể, nay mai tôi sẽ relever những chữ lầm ấy (Việt và Hán) thành một bản gởi ra Anh. Công việc này mất vài ngày, chứ không hơn, nhưng xin cho đợi hứng.

Nhà Tây Sơn của Quách Giao có giá trị lớn. Nhiều chi tiết mới về ḍng dơi anh em Vua Quang Trung. Các tướng tá giúp vị anh hùng này cũng được truyền thần một cách hết sức linh động. Nguyên nhân bất ḥa giữa Vua Thái Đức và Bắc B́nh Vương xem ra hữu lư hơn nguyên nhân đă được ghi trong chính sử. Điều đáng chú ư nhất là ngọn bút của nhà chép sử trẻ này dạt dào nhiệt t́nh, đă gây được cảm xúc mạnh nơi người đọc, làm cho người đọc yêu mặn nồng hơn mà ghét cũng ghét cay ghét đắng hơn: Yêu những khí phách hào hùng, những tấm ḷng thẳng ngay, chung thủy..., ghét những thói gian ngoan, hèn nhát, những hành động tàn bạo, khát máu, độc ác hơn cả giống sài lang. Tác giả thuật sự cũng rất giỏi, khiến người đọc có lúc hồi hộp như đọc La Quán Trung hay Kim Dung. Ngần ấy thiết tưởng đủ rồi, chả cần cầu viện đến văn phong tiểu thuyết (bắt gặp trong một vài đoạn, tỉ như Quang cảnh thành Quy Nhơn lúc bấy giờ vừa bi vừa hùng - Đó là ngày             24 tháng 5 năm Tân Dậu (1801)... Bóng chiều tràn ngập núi sông...) vân vân...

Sau chuyện Sử, bây giờ xin trở lại chuyện Thơ.

Đọc những công tŕnh biên khảo về Thơ của Anh, thứ nhất là Thơ Đường và Hứng Phấn Nâng Hương (I và II), tôi thật thán phục anh về công phu thi học và về thái độ cẩn nghiêm của Anh trong việc áp dụng Niêm luật thơ Đường. Đến khi đọc chương 41/A, tôi cũng thán phục ngọn bút phê b́nh thơ Đường rất tinh tế của anh Quách Trường Sa. Tôi e rằng người mới học Thơ, có thể đọc các anh rồi, đâm hoảng, không dám dấn thân nữa...


 GIẢN CHI

Quách Giao trích sao.

Hà Nôi, 23-8-1984 Kính gởi anh chị, Bạn của cháu Ngọc đă mang đến tập Nhà Tây Sơn của Giao viết và các bài viết lại Hứng Phấn Nâng Hương, đúng như trong thư anh ghi rơ. Tôi đă đóng những trang mới ấy thay vào các trang cũ. Những bài mới, những trang mới viết lại, rơ ràng hơn hẳn và có giá trị tư liệu cũng như văn học cao.

Tập Nhà Tây Sơn viết rất hấp dẫn. Tôi mới đọc qua một lần, thấy có một số chỗ cần trao đổi thêm. Có nhiều điểm rất cụ thể, nhận xét rất chính xác, như vấn đề bất ḥa giữa N. Nhạc, N. Huệ, nguyên nhân..., có những việc rất lư thú, rất đau xót, nhất là cuộc đời Diệu, Xuân, Dũng, Long... v.v...

Tôi chưa có thể viết lời góp ư ngay, mà cần phải đọc lại bằng lư trí (v́ nay mới đọc bằng t́nh cảm) nhưng có hai vấn đề cần gợi ư trước:

1.Đúng như anh nói trong bài giới thiệu: Tập này không thể gọi là một quyền lịch sử v́ tài liệu một số lớn chưa được phối kiểm một cách chặt chẽ. Đó là khoa học. Tuy nhiên nó lại bao gồm rất nhiều tư liệu chính xác mà chính sử không biết hoặc không nêu, hoặc xuyên tạc, hoặc nhầm lẫn. Nó chính xác hơn v́ nó được bảo tàng trong kư ức của nhân dân địa phương, nó c̣n dấu vết tại địa phương. V́ vậy tôi đề nghị anh nên nói rơ hơn trong Tựa, đính chính sai lầm của sách cũ, cũng như các suy đoán theo định kiến của các nhà sử mới.

2. Nói về Nhà Tây Sơn mà rất ít nói những t́nh cảm Tây Sơn để lại, trong nhân dân địa phương cho đến nay, là một điều thiếu sót. H́nh như không phải chỉ Kiên Mỹ thờ ba Vua mà ngay cả ở Vân Tường cũng có việc làm lễ hàng năm.

Cần hỏi lại anh Đồng xem có biết được bài văn tế mà lư trưởng Kiên Mỹ, đời này sang đời khác, truyền khẩu bí mật cho nhau để đọc khi tế ba Vua. Bài văn tế ấy cho đến đời Xă Suyền chết 1947 mang theo xuống tŕnh Quang Trung. Được bài văn ấy là một cống hiến lớn cho lịch sử.

Việc 2 cây Ké, Cầy treo cờ làm lễ xuất quân ở chân đèo An Khê được nhân dân ǵn giữ làm vật lưu niệm, măi đến thời Mỹ mới bị ngụy chặt phá..., cũng đẹp và có ích. Văn của Giao viết giản dị mà hấp dẫn, rành rọt. Có một số địa danh, sự việc cần được bàn kỹ lại.

Lư Tài, Tập Đ́nh là hai tên tướng giặc Tàu Ô về giúp Tây Sơn, có đóng quân tại Phú Yên, nơi đến nay vẫn c̣n dấu: Núi Trại Khách ở Đồng Xuân. Ở đó cũng lưu lại một câu hát đưa em:

- Gió đưa ông đội về Tàu Bà đội ở lại xuống bàu bắt cua Bắt cua làm mắm cho chua Gởi về ông đội khỏi mua tốn tiền. Đó là sau khi hai tướng tàu bỏ trốn về Hải Nam, vợ me Tàu bỏ lại bị nhân dân chế giễu...


QUÁCH TẠO

( Quách Giao trích sao )

 

SÁCH THAM KHẢO

 

1. Đại Nam chính biên liệt truyện          Nguyễn Phương dịch

2. Hoàng Lê Nhất Thống Chí                     Ngô Tất Tố dịch

3. Đại Nam Nhất Thống Chí                      Nguyễn Tạo dịch

4. Tây Sơn lương tướng truyện                 Nguyễn Trọng Tŕ

5. Tây Sơn văn thần truyện                        Nguyễn Bá Huân

6. Nguyễn triều long hưng sự tích                  Trần Văn Tuân

7. Việt Nam Văn Hiến Sử                              Lư Văn Hùng


                                  
Thôi Triệu Miên   

8. Dụ Am Văn Tập                                              Phan Huy Ích

9. Việt Nam sử lược                                         Trần Trọng Kim

10. Quang Trung Nguyễn Huệ                                    Hoa Bằng

11. Vua Quang Trung                                        Phan Trần Chúc

12. Triều Tây Sơn                                              Phan Trần Chúc

13. La Sơn Phu Tử                                           Hoàng Xuân Hăn

14. Lịch sử Tây Sơn (bản thảo)                              Bùi Văn Lăng

15. Hùng khí Tây Sơn                                                 Lam Giang

16. Sài G̣n xưa và nay                                     Vương Hồng Sến

17. Lịch sử Việt Nam                               NXB Văn Hóa Hà Nội

18. Thiên tài quân sự Nguyễn Huệ NXB.Quân đội nhân dân

19. Một số trận quyết chiến chiến lược NXB. Quân đội nhân dân

20. Nhân vật B́nh Định                                        Đặng Quư Địch

21. Histoire de I Indochine                                                Lasson

22. Nouvelle des Missions Etrangères  M.dela Bissachères

23. Bulletin de la Sté des Etudes Indochinoises

24. Luận án về Nguyễn Huệ 1753-1788                 Trần Gia Phụng

25. Tập san Sử Địa đặc khảo về Quang Trung (tập 9-10) năm 1968

26. Tây Sơn nhân vật chí                                               Đinh Sĩ An

27. Nước non B́nh Định                                               Quách Tấn.


 
TÁC PHẨM CỦA QUÁCH TẤN

ĐĂ XUẤT BẢN


Thơ:


1. Một Tấm Ḷng                                                       1939

2. Mùa Cổ Điển                                 1941 - Tái bản 1960

3. Đọng Bóng Chiều                                                   1965

4. Mộng Ngân Sơn                                                    1966

5. Giọt trăng                                                                1973

6. Trăng Hoàng Hôn                                                   1999

7. Tố Như Thi (thơ dịch)                     1973 - Tái bản 1995

8. Lữ Đường Thi (thơ dịch)                                        2000

9. Tuyển thơ                                                               2002

10. Vui Với Trẻ Em                                                   1994


Văn:


1. Trăng Ma Lầu Việt                           1942 - Tái bản 2002

2. Ngh́n lẻ một đêm (4 tập)                  1958 - Tái bản 1994

3. Nước Non B́nh Định                        1968 - Tái bản 1999

4. Xứ Trầm Hương                     1969 - Tái bản 1992; 2002

5. Đời Bích Khê (hồi kư)                                               1971

6. Đôi nét về Hàn Mặc Tử (hồi kư)                               1988

7. Họ Nguyễn thôn Vân Sơn                                         1988

8. Nhà Tây Sơn (+ Quách Giao) 1988 - Tái bản 1998; 2000; 2001

9. Nét Bút Giai Nhân                                                    1998

10. Bước lăng du                                                         1998

11. Thi Pháp Thơ Đường                                               1998

12. Bóng Ngày Qua (Đời Văn Chương)                        1999

13. Trường Xuyên Thi Thoại                                         2000

14. Bóng Ngày Qua (Bàn Thành Tứ Hữu)                     2001

15. Vơ Nhân B́nh Định (+ Quách Giao)                        2001

16. Những Tấm Gương Xưa                                         2001

 

CHƯA XUẤT BẢN


Thơ:


1. Tiếng Vàng Khô                                      Thơ thất ngôn

2. Nhánh Lục                                               Thơ lục bát

3. Mây Cổ Tháp                                          Thơ ngũ ngôn

4. Cánh Chim Thu                                        Thơ ngũ ngôn

5. Vị La Phù                                                 Thơ ngẫu chiếm

6. Phấn Bướm C̣n Vương                           Thơ thất ngôn

7. Nửa Rừng Trăng Lạnh                              Thơ lục bát

8. Giàn Hoa Lư                                             Thơ lục bát

9. Trăm Thiên Đường Luật                            Thơ thất ngôn

10. Móc Đọng Tàu Cau                                Thơ thất ngôn

11. Áo Đắp Tâm Tư                                     Thơ thất ngôn

12. Xuân C̣n Rơi Rớt                                   Thơ thất ngôn

13. Ngục Trung Nhật Kư                               Thơ dịch

14. Bóng Hương Xưa (Việt Nam Hán Thi)     Thơ dịch

15. Thơ Biền ngẫu                                          Văn tế, Văn bia

 

Văn :
1. Hương Vườn Cũ                                                       Thi thoại

2. Trong Vườn Hoa Thơ                                                Thi thoại

3. Những Bức Thư Thơ (2 Tập)                                     Thi thoại

4. Hứng Phấn Nâng Hương                                            Thi thoại

5. Cảnh Cũ C̣n Đây                                                      Du kư

6. Ngh́n Lẻ Một Đêm (4 Tập Tiếp)                                Thi pháp

8. Bát Canh Tập Tàn                                                      Bút kư

9. Tà Bá Nạp                                                                 Bút kư

10. Những Giấc Mộng Không Mê                                  Bút kư

11. Phong Trào Cần Vương Tỉnh Khánh Ḥa                  Khảo cứu

12. 40 Năm Văn Học Khánh Ḥa                                   Khảo cứu

13. Bóng ngày qua (10 tập)                                             Hồi kư

 

VIẾT CHUNG VỚI QUÁCH GIAO

 

1. Nhà Tây Sơn

2. Vơ Nhân B́nh Định

3. Hát Bội B́nh Định

4. Thi Nhân B́nh Định

MỤC LỤC

Lời đầu sách

Lời thưa

 -Ấp Tây Sơn

 - Nhà Tây Sơn

- Tây Sơn khởi nghĩa

- Anh hùng nghĩa sĩ giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp

- Nhà Tây sơn đánh nhà Nguyễn ở mặt Bắc

- Đánh với nhà Nguyễn ở mặt Nam

- Tây Sơn Vương sửa thành Đồ Bàn và xưng đế hiệu

- Tây Sơn b́nh Gia Định

- Tây Sơn pḥ Lê diệt Trịnh

- Cảnh nứt rạn trong nhà Tây Sơn

- Bắc B́nh Vương đối phó mặt Bắc

- Chiêu Thống rước Tàu về đánh Tây Sơn

- Vua Quang Trung đại phá quân Thanh

- Vua Quang Trung đối ngoại

- Vua Quang Trung và vấn đề nội trị

- Vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Quang Toản kế vị

- Nguyễn Phúc Ánh nổi dậy đánh Tây Sơn

- T́nh h́nh ở Diên Khánh và Phú Xuân

- Cuộc đại chiến ở Quy Nhơn giữa hai nhà Nguyễn

- Trần Quang Diệu chiếm B́nh Định, Nguyễn Phúc Ánh   chiếm Phú Xuân

- Cảnh Thịnh ra Bắc Thành, Nguyễn Phúc Ánh xưng đế hiệu

- Sự trả thù của nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn

- Ḷng dân đối với nhà Tây Sơn  Thay lời kết

5

9

15

24

49

60

87

93

100

117

144

160

166

175

182

196

205

221

231

239

247

254

270

283

317

   
Phụ lục 319
Sách tham khảo 347
Tác phẩm của Quách Tấn   348
 

[1] Trĩ: có nghĩa là núi. Đối trĩ: chỉ hai ngọn núi đối nhau.

[2] Hàn mặc: văn chương. 2 Trụ ba biểu: trụ vôi, có h́nh hoa sen trên đầu.

[4] Trong Nước non B́nh Định đă nói kỹ càng về núi sông vùng Tây Sơn. Ở đây chỉ rút những nét đại cương và chỉ đề cập đến những ngọn núi có để dấu hoặc nhiều hoặc ít của cuộc khởi nghĩa của nhà Tây Sơn.

[5] Quy Nhơn là tên phủ thuộc dinh Quảng Nam, phủ Quy Nhơn chia làm ba huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Sau này Quy Nhơn đổi ra B́nh Định và các huyện. Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn bị cắt chia làm bảy huyện:

- Tuy Viễn chia ba: B́nh Khê, An Nhơn, Tuy Phước.

- Phù Ly chia hai: Phù Cát và Phù Mỹ.

- Bồng Sơn chia hai: Hoài Nhơn, Hoài Ân.

[6] Kiên Mỹ ở dưới Phú Lạc, Phú Lạc không có chợ. Bến sông đ̣ đậu để buôn trầu gọi là bến Trường Trầu, gọi tắt là bến Trầu, hiện vẫn c̣n.

[7] Theo Tây Sơn nhân vật chí của Đinh Sĩ An, thời Cảnh Thịnh.

[8] Bách nhị: lấy từ chữ bách nhị sơn hà chuyện hai người dựa vào thế núi hiểm trở chống lại một trăm người mà không bị đánh bại.

[9] Xem tiểu sử bà Nhạc ở đoạn sau (đoạn nói về ông Nguyễn Văn Tuyết).

[10] Núi này mang tên Kiếm Sơn là do tích được kiếm của Nguyễn Nhạc. Sử sách chép rằng ông Nhạc lượm được gươm tại núi An Dương. Sự thật đó là thanh cổ kiếm cụ giáo Hiến giữ giùm cho ông Nhạc.

[11] Ḥn Giải có tên là ḥn Trống (cổ sơn) lại thêm tên ḥn Ấn, (Ấn Sơn).

[12] Sử nhà Nguyễn chép rằng Nguyễn Nhạc thua bạc hết tiền thuế, bị truy nă, do đó chạy vào rừng làm giặc.

[13] Người Gia Rai coi bộ lạc ḿnh là con cháu chính thống của thần Lửa cho nên đă mang tên của thần Lửa là Giarai (Djarais).

[14] Không có ǵ lạ: Lấy giấy trắng tốt nhúng dầu trong phơi khô rồi phất trong ḷng giỏ bội. (Giấy nhúng dầu xong để khô trông giống tờ ny-lông). Đổ nước vào giỏ, nước không chảy, giấy không bị ướt.

[15] Con bạch mă sau này trở thành một chiến mă. Khi ông Nhạc qua đời, ngựa trở về núi.

[16] Rừng Mộ Điểu sau trở thành cánh đồng gọi là cánh đồng Cô Hầu và ngọn núi ở giữa đồng bào đặt tên là núi Hoàng Đế.

[17]Cửa Giă là Quy Nhơn hiện thời, Huyền Khê là hiệu. Tên thật không rơ.

[18] Nguồn An Tượng nằm trong dăy núi phía Nam của huyện Tuy Viễn. Nhưng Huy, Tứ Linh là 2 kép hát, hát hay vơ giỏi.

[19]Sau này Bồng Sơn chia làm hai là Hoài Nhơn và Hoài Ân. Phù Ly chia làm hai là Phù Cát ở trong Phù Mỹ ở ngoài. Tuy Viễn chia làm ba là B́nh Khê ở trên và nằm trọn trong ấp Tây Sơn cũ. An Nhơn ở giữa, Tuy Phước ở cuối và chạy xuống tới biển Thị Nại.

[20] Đại Nam Chánh biên Liệt truyện và Khâm Định Việt sử Thông Giám Cương Mục có chép rơ việc Nguyễn Nhạc dùng mưu vào thành làm nội ứng. Nhưng lại chép người từ ngoài đánh vào là Nguyễn Thung, vào hạ thành lúc ban đêm. Nhưng theo bức thư của Linh mục Jumilla de Diego đăng ở Bulletin de la Socíeté des Etudes indochinoises, Nouvelle série, Tome XV, nos 3 et 4 - 1940 th́ thành hạ lúc ban ngày và do đoàn quân của Nguyễn Thung và Nhưng Huy điều khiển. Nhưng theo các phụ lăo B́nh Định th́ Nguyễn Thung là một nhà giàu không biết vơ, lúc hạ thành Quy Nhơn đang lo vận tải lương thực.

[21] Hai thôn Phú Phong, Xuân Ḥa, sau này ghép thành xă B́nh Phú. Phú Phong Xuân Ḥa ở phía Nam, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa, Dơng Ḥa ở phía Bắc, cách nhau con sông Côn.


[22] Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Ḥa th́ đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một vơ sư trứ danh ở An Vinh, thời Pháp thuộc.

[23] Con ngựa này lúc bà ra pḥ Vua Quang Trung ở Phú Xuân vẫn c̣n, và bà thường cỡi ra mặt trận. Cho nên cụ Nghè Tŕ tặng bà câu: Bạch mă tŕ khu cổ chiến trường, Tướng quan bách chiến thanh uy dương.

[24] Vịnh Bùi Thị Xuân cụ Nghè Tŕ có câu: Hoàng hôn thành dốc bi già động, Hữu nhân diệu tỉ phù dung kiều.

[25] Thuận Ninh ở trong vùng Tây Sơn ở phía bắc sông Côn, thuộc B́nh Khê.

[26] Họ Trần Quang ở Nghĩa B́nh có hai nhánh, một nhánh ở Ân Tín, Hoài Ân, một nhánh ở Tư Sơn, Đức phổ. Hai nhánh trước đây thường gặp nhau trong dịp chạp mả tổ ở Ân Tín. Trần Quang Diệu thuộc nhánh Ân Tín, hiện c̣n mả tổ và từ đường. Mả tổ có bia đề: Trần gia tổ sơn.

[27] Kim Sơn ở Hoài Ân. Ở Kim Sơn có đường núi đi vào B́nh Khê. Quê hương nhà anh hùng Tăng Bạt Hổ.

[28] Chuyện ông cụ họ Diệp ở Kim Sơn do ông bạn Diệp Đ́nh Chi kể lại. Ông cụ là ông tổ cao đời của họ Diệp.

Ông Diệp Đ́nh Chi, thời Pháp thuộc làm trợ giáo ở Đà Lạt, thời kháng chiến chống Pháp về ở Vĩnh Thạnh. Sau Hiệp định Giơnevơ, trở lại Đà Lạt, qua đời trước ngày thống nhất. Ở Hoài Ân vào B́nh Khê có đường núi, qua lại rất gần nhưng khó đi. Kim Sơn là một dăy núi nằm trong địa hạt Hoài Ân. Thế rất hiểm, khí rất hùng. Có hai ngọn cao nhất là ḥn Tổng Dinh và ḥn Trà Vinh. Núi không cao lắm (dưới 500 thước) nhưng chung quanh có núi khe làm tŕ. Lại có nhiều thú dữ nên ít ai dám đến.

[29] Cao Miên là Cao Man, tên do Minh Mạng gọi, trước kia gọi là Cam Bộc Tŕ nay gọi là Campuchia.

[30] Bà này sau làm tỳ tướng bà Bùi Thị Xuân.

[31] Kiên Dơng thuộc huyện Tuy Viễn ở vùng Tây Sơn Hạ tức B́nh Khê. Ở cách Kiên Mỹ một thôn phía đông là thôn Thuận Nghĩa.

[32] Roi tức trường côn. Thuật đánh roi của ông Hưng truyền đến Hồ Ngạnh ở Thuận Truyền (thôn ở phía tây bắc Kiên Dơng) là tám đời.

[33] Có người bảo Nhưng Huy và Tứ Linh là hai kép hát hát hay vơ giỏi. Thủ hạ gồm có vài ba người. Xét nơi nào có thể làm ăn được th́ tổ chức một vài đêm hát bội để ai nấy lo coi hát bỏ việc tuần pḥng, rồi mới ra tay hốt của. (Nhưng là tiếng gọi người dầm đầu gánh hát về mặt nghệ thuật. Tư hay tứ là thứ Bốn).


[34] Hoa Bằng trong Quang Trung, chép rằng Nhậm là tướng nhà Nguyễn bị bắt năm Bính Ngọ 1786 trong trận Nguyễn Huệ đánh Gia Định. Nhưng không có trận đánh Gia Định nào vào năm Bính Ngọ. Trên đây, chép theo truyền thuyết và theo Tây Sơn lương tướng của Nguyễn Trọng Tŕ ;

[35] Ngô Văn Sở gốc ở Thanh Hóa vào lập nghiệp ở B́nh Thạnh đă lâu đời. Hiện nay c̣n con cháu là Ngô Xuân Liêm.

[36] Ba nơi sông Cối, sông Thế, băi Kim Sơn ở cách nhau không xa.

[37] Mỹ Thị tức Mỹ Khê ở trong phạm vi Đà Nẵng hiện tại.

[38] Trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim chép: Nguyễn Nhạc không lo mặt Bắc nữa, bèn lập mưu để đánh lấy đất Nam, đem con gái ḿnh là Thọ Hương dâng cho Đông Cung và khoản đăi một cách rất tôn kính, rồi sai người đến giả nói với Tống Phước Hiệp xin về hàng để lo khôi phục đất Phú Xuân, Hiệp tưởng thật, không pḥng bị... Nguyễn Huệ đem quân đánh, Phúc Hiệp ... thua chạy...

Xét: Nguyễn Nhạc có hai gái đầu và ba trai là Bửu, Đức, Lương. Con gái đầu lúc ấy (1774) mới chừng mười, mười hai tuổi, sau này một gả cho Vũ Văn Nhậm, một cho Trương Văn Đa. Như thế việc gả con cho Đông Cung không thể có.

[39] Phú Lạc, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa, Dơng Ḥa, từ tây xuống đông, thôn này giáp thôn nọ, thuộc về Tây Sơn Hạ (trước là huyện Tuy Viễn chia ba - B́nh Khê - An Nhơn, Tuy Phước - th́ Tây Sơn Hạ thuộc về B́nh Khê).

[40] Trong sách của cụ Bùi Văn Lang chép là Nguyễn Văn Duệ.

[41] Việt Nam lược sử của Trần Trọng Kim chép là Tây Sơn Vương. Sách Tây Sơn của Bùi Văn Lang chép là Minh Đức chúa công

[42] Vua Thái Đức dựa theo quan chế nhà Trần. Nhưng đời Trần, An Phủ Sứ thuộc văn giai ngoại chức. Pḥng Ngự Sứ thuộc về vơ giai ngoại chức. Đời Tây Sơn không phân biệt văn vơ, mà phân biệt phủ lớn phủ nhỏ.

[43] Miếu được luôn luôn tu bổ nên măi trước năm 1945 vẫn c̣n. Hành khách đến miếu thường xuống xe đốt hương.

[44] G̣ đó vẫn c̣n, tục gọi là g̣ Tập voi.

[45] Tại núi Phương Mai c̣n di tích. Ở Diên Khánh, xưởng cất ở dưới chân núi địa đầu thành phố Nha Trang. Núi ấy có xưởng đóng thuyền ở dưới chân nên gọi là Núi Xưởng. Sau đó Trần Quang Diệu cất trại thủy binh trên núi để chặn binh Nguyễn Phúc Ánh nên núi lại mang tên là núi Trại thủy.

[46] Ḷ đúc Quang Hiển hiện nay vẫn c̣n di tích. Nông dân địa phương thường đào được gang, quặng sắt, đồng vụn... để đúc súng đánh Pháp.

[47] Thượng phong tiết, đa phong lực, nhiêu phong nhă. Ông là tác giả bộ Trần Triều Thông Sử Cương Mục soạn năm Quang Trung thứ tư.

[48]Đích danh là Hỏa hổ lớn bằng cổ tay, làm bằng đèn khối, rất nhạy lửa, nước tưới không tắt, chỉ đất bùn mới dập tắt.

[49] Nghe truyền rằng viên tướng Xiêm thấy Bùi nữ tướng đường kiếm tuyệt luân, sắc đẹp lại tuyệt mỹ, đứng ngó sững sờ nên bị nữ tướng chém không đỡ kịp. Đầu giặc bay xa đến mấy dặm và bị rơi dính trên cây cao.

[50] Các sách Quốc ngữ đều chép là Chiêu Sương và giải thích rằng Chiêu là một chức quan. Nhưng sách Nguyễn triều long hưng sự tích lại chép là Triệu Tăng và gọi là Thế Tử.

[51] Các sách Quốc ngữ đều chép rằng trong số tướng tá chạy theo Nguyễn Phúc Ánh có Lê Văn Quân. Song nghe truyền Quân bị thua trận Ba hai xấu hổ tự sát. Lời truyền phù hợp với lời ghi trong Đại Nam Nhất Thống chí nơi mục sông ng̣i và mục nhân vật.

[52] Từ khi họ Trịnh cầm quyền, th́ bên nhà vua gọi là Triều Đ́nh bên phủ chúa gọi là Phủ Liêu. Mọi việc về chính trị, quân sự... đều do bên phủ Liêu định đoạt cả.

[53] Kiểu mệnh là trái mệnh. Kiểu chiến là không có mệnh Vua mà cứ xuất quân.

[54] Vua Thái Đức ra đi ngày nào và đến Thăng Long ngày nào không được biết. Theo Hoàng Lê Nhất Thống chí th́ nhà vua được tin Nguyễn Huệ chiếm Thăng Long ngày 14 tháng 7 năm Bính Ngọ. Năm Bính Ngọ nhuần hai tháng 7. Có thể đoán là nhà vua từ Quy Nhơn ra đi vào hạ tuần tháng 7 trước và đến Thăng Long vào thượng tuần tháng 7 sau. Ở Thăng Long chừng tuần nhật để ra về ngày 14 tháng 7 nhuần.

[55] Sáng hôm sau, Chỉnh được tin Vua tôi Tây Sơn về Nam thất kinh bỏ hết tài sản, xuống chiếc thuyền buôn chạy theo. Trong thuyền Chỉnh có làm bài văn tứ lục Tần cung nữ oán Bái Công để trách Nguyễn Huệ (rất tiếc hiện không c̣n giữ. Sau Đặng Trần Thường dựa theo đó soạn một bài khác hay hơn).

[56] Nồi da xáo thịt, ḷng em sao nỡ?Bà nội tôi đă diễn ra Quốc âm:

Lỗi lầm anh vẫn là anh Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em? (Q.G chú)

[57] Nguyễn Văn Tuyết ở Phú Xuân ra Thăng Long với Bắc B́nh Vương.

[58] Trần Văn Kỷ quy thuận nhà Tây Sơn lúc Bắc B́nh Vương ra Phú Xuân và theo Vương ra Thăng Long để trừ Vơ Văn Nhậm.

[59] Có nhiều tác phẩm bằng chữ Hán truyền thế.

[60] Có nhiều tác phẩm bằng chữ Hán truyền thế.

[61] Người xưa dạy: Phụ từ tử hiếu, quân kính thần trung nghĩa là cha có hiền lành con mới có hiếu Vua có kính v́ tôi mới trung tức là người trên có lo tṛn bổn phận ḿnh th́ mới có quyền buộc kẻ dưới lo tṛn bổn phận. Nhưng người sau lại nói: Phụ bất từ, tử bất khả bất hiếu, quân bất kính, thần bất khả bất trung. Nghĩa là Cha không lành, con không thể không hiếu. Vua không kính, tôi không thể không trung. Tức là buộc kẻ dưới phải giữ hết phận ḿnh đối với người trên, dù người trên không giữ tṛn bổn phận. Phần đông các nhà Nho theo lời sau. [62] Đại Nam Quốc Sử diễn ca có câu nói về binh Tây Sơn: Quân dung đâu mới lạ thường Mũ mao áo đỏ chật đường kéo ra.

[63] Ngạnh công: Cương quyền. Nhuyễn công: Nhu quyền.

[64] Tam Điệp tục gọi là núi Ba Dội ở giữa Thanh Hóa và Ninh B́nh.

[65] Các sách chép là Đô Đốc Mưu.

[66] Theo lời của giáo sĩ Jumilla de Diego, trong Bulletin de la Socíeté des Etudes Indo Chinoises.

[67] Phạm Văn Trị là anh bà họ Phạm mẹ Nguyễn Quang Thùy.

[68] Mười bài từ đó là: Măn đ́nh phương, Pháp giá dẫn, Thiên thu tuế, Lâm giáng tiên, Thu ba tế, Bốc dưỡng tử, Yết kim môn, Hạ thánh triều, Lạc xuân phong, Phượng hoàng các.

[69] Bảo tất là ôm gối: con ôm gối cha để đón niềm vui vẻ (tất hạ thừa hoan). Đó là Vua Càn Long muốn cụ thể hóa lời nói của Vua Quang Trung trong bài chiếu tạ ơn, và lời của chính ḿnh khi xem xong tờ chiếu.

[70] Câu này chép theo cụ Bùi Văn Lang. Có người đọc là: Tiền triều kham tiếu đại kim nhân. Lại có người đọc: Thắng triều văng sự đại kim nhân. Chuyện Người vàng: Trong trận Chi Lăng, Lê Lợi bắt giết tướng Minh là Liễu Thăng. Sau Vua Minh buộc Vua Lê phải cống người vàng để thường mạng. Các triều Lê, Mạc đều nộp hàng năm. Đến đời Lê Trung Hưng, triều Lê Dụ Tông Nguyễn Hăn dùng tài ngoại giao xin băi bỏ. Đến đời Quang Trung, Tổng Đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An viết thư nhắc lại lệ ấy. Vua Quang Trung phản đối. V́ nể kẻ chiến thắng Vua Thanh làm ngơ.

[71] Nha hàng: Cơ quan giới thiệu về việc mua bán.

[72] Lê Trung, người Phù Mỹ phủ Quy Nhơn, văn vơ gồm tài. Đi lính ở Phù Ly, theo Vua Quang Trung ra Thuận Hóa, lập nhiều chiến công làm lên đến chức Đô Đốc. Tính trung nghĩa thường ngâm câu thơ của Văn Thiên Tường: Nhân sanh tự cổ thùy vô tử Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh.

[73] Theo cụ Bùi Văn Lang th́ bà họ Phạm là người Duy Xuyên (Quảng Nam), cùng mẹ khác cha với Bùi Văn Nhật, Bùi Đắc Tuyên; năm 30 tuổi được phong làm Hoàng Hậu và sanh hạ được ba trai hai gái, Quang Toản là trưởng nam. Cụ Bùi đă lầm, v́ bà họ Phạm và bà họ Bùi c̣n miêu duệ ở Phú Phong, Xuân Ḥa.

[74] Theo sách La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân Hăn.

[75] Có nhiều nhà sư hiện đại cho việc làm vua Quang Trung là chống lại Phật giáo và gọi Tây Sơn là Ngụy triều.

[76] Trong lá thư đề ngày 18-7-1793 của Linh mục Le Roy gởi cho Plandin, có câu Từ khi nhà Tây Sơn lên làm chủ. Tôn giáo được tiến bộ, đăng trong Nouvelles des missions etrangères cuea M. de la Bissachère năm 1902.

[77] Một loại giáo

[78] Xem mục Vua Quang Trung đối ngoại.

[79] Trong Đại Nam Chánh Biên Liệt truyện chép là ngày 29 tháng 9 Nhâm Tư. Nhiều sách cũ nói về nhà Tây Sơn cũng chép theo Liệt truyện. Nhưng trong sách La Sơn Phu Tử, học giả Hoàng Xuân Hăn, đưa ra hai chứng nhân người Âu Châu là Gúerard và Labousse đều nói rằng Vua Quang Trung chết vào tháng September 1792. Tính theo Âm lịch th́ September năm 1792 kéo dài từ 15 tháng 7 đến 15 tháng 8 năm Nhâm Tư. C̣n ngày 29 tháng 9 năm Nhâm Tư th́ nhằm ngày 13  November 1792. Chúng tôi nhận thấy rằng lời hai chứng nhân Âu Châu hợp lư hơn là nhà viết sử hậu sinh của nhà Nguyễn. Vậy Vua Quang Trung băng vào tháng 7 năm Nhâm Tư.

[80] Sử gọi ḍng Nguyễn Huệ là Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Gia Miêu.

[81] Bài đăng trên Phổ Thông của Nguyễn Vỹ.

[82] Bản truyền thiếu một chữ.

[83] Tuyên là anh ruột bà hoàng hậu họ Bùi, là anh con bác ruột của Bùi Thị Xuân.

[84] Tuyên ở Xuân Ḥa, Tú ở Phú Phong, hai làng giáp giới nhau (nay nhập thành một xă) cho nên hai bên quen biết nhau từ lúc nhỏ.

[85] Về Lê Văn Hưng có một giai thoại rằng: Lúc c̣n trẻ ở nhờ nhà họ Dương, giao t́nh cùng với người tớ gái của chủ nhà tên là Ngọc Bích, Hưng tặng cho Ngọc Bích một chiếc nhẫn vàng hẹn 5 năm sau sẽ đến cưới. Quá hẹn không thấy Hưng đến, Ngọc Bích nhịn ăn mà chết.
Trong thời gian Hưng trấn thủ Diên Khánh thường thương nhớ t́nh xưa. Có kẻ giỏi thuật thần tiên chiêu hồn Ngọc Bích tới. Hồn nói cùng Hưng rằng 13 năm sau sẽ đến hầu khăn túi. Khi Hưng được Bùi Đắc Tuyên trọng dụng, một hôm trong buổi lễ mừng sinh nhật, một thương gia ở Phú Xuân đem đến mừng Hưng một ca cơ hiệu Ngọc Bích. Hưng cho là một chuyện hy hữu, v́ chẳng những tên trùng mà dung nhan cũng phảng phất người cũ nhà họ Dương.

[86] Dăy núi nằm ở địa đầu thành phố Nha Trang, hiện có chùa Hải Đức và Kim thân Phật Tổ.

[87] Có sách gọi lá Hán Xuyên, hoặc Mỹ Xuyên.

[88] Có sách chép Lê Chất là rể Lê Trung.

[89] Phú Phong là quê hương của Vơ Đ́nh Tú - đă nói rơ trước kia.

[90] Mới vừa đến thay Tư đồ Nghĩa được mấy tháng.

[91] Cung lớn có ṇng sắt, có sức mạnh mới kéo nổi dây cung. Bắn rất xa.

[92] Có ghi rơ trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích.

[93] Lúc ở Quy Nhơn bà chỉ có 2.000 nữ binh, ra Phú Xuân mới tổ chức thêm. Số voi này là voi mới. Voi bà đă luyện tập ở Quy Nhơn, đều phân phát cho các trấn. Bà chỉ đem ra Phú Xuân thớt voi đầu đàn bà thường cỡi

[94] Núi Thị Dă thuộc về Tuy Phước, phía tây nam có núi Bà Thanh, có đường đi đến suối Nam Thủy ở Phú Yên. Người Thượng dùng đường này để qua lại Phú Yên và Quy Nhơn.

[95] Cù Lao Xanh, Chàm gọi là Poulo Gambia, nằm giữa hải phận Phú Yên và Quy Nhơn ;

[96] Lúc bấy giờ Cách Thử chưa bị lấp, đường nước thông thương với đường Thị Nại ở phía nam thuộc về Tuy Phước ;

[97] Núi Hương An ở phía đông, núi An Tượng ở phía tây , có đường liên lạc xuyên qua các ngọn núi liền dây.

[98] Em rể Vua Cảnh Thịnh chông công chúa là con gái Bùi Thái Hậu.

[99] Trương Đăng Đồ người làng Mỹ Khê, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Nghĩa (chú ruột Trương Đăng Quế). Văn vơ toàn tài. Bà phu nhân sắc đẹp, vơ giỏi, cùng nữ tướng Bùi Thị Xuân và bà họ Trần vợ Đô Đốc Tuyết là chỗ thâm giao.

[100] Thơ của Nguyễn Bá Thuận đề sách Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Tŕ. Thơ 8 câu, đây là cặp luận. Câu thơ đại ư nói: Đền ơn nước, một tấm thân đầy cả mật (can đảm đầy ḿnh). Ngh́n năm giao t́nh với nhau, chỉ lấy tấm ḷng mà luận thị phi.

[101] Chắc có lỗ thông hơi trong đá nên đèn không tắt.. Khoảng 1929-1930, Tản Đà tiên sinh có đến viếng mộ. Lúc ấy hai tảng đá vẫn c̣n. Cuộc viếng mộ có đăng trên báo. Nay không c̣n thấy.

[102] Những vôi đá của ba ngôi mộ bị quật vẫn c̣n sót ít nhiều. Ba ngôi mộ không bị phá vẫn c̣n, nhưng nắng mưa làm hư nhiều lắm. Một ngôi ở trong vườn họ Từ, một ngôi nằm ở trước ngơ họ Phan, một ngôi nằm ở nơi g̣ Vườn Xoài, cạnh con đường liên hương từ Kiên Mỹ đi xuống. Không ai dám nhận những ngôi mộ này là của gia đ́nh, v́ h́nh phạt của nhà Nguyễn rất tàn khốc.

[103] Câu này thường nghe hát ở nhiều nơi rằng: Ruộng đồng mặc sức chim bay Biển hồ lai láng mặc tài cá đua. Câu này có tánh cách phổ thông. Câu kia, màu sắc địa phương đằm thắm. Đá Hàng là phụ lưu của sông Côn, chạy từ Nam ra Bắc, ở giữa làng Trinh Tường và Phú Phong. Từ chỗ giao thủy Đá Hàng và sông Côn th́ sông chia làm hai chảy xuống phía đông, một gọi là sông Trước chảy sát địa phận làng Phú Phong, Xuân Ḥa, một gọi là sông Sau chảy xuyên qua Phú Lạc, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa. Nơi sông Sau từ Phú Lạc xuống Kiên Mỹ nước rất sâu, khoảng đó gọi là Hàng Thuyền. Trên bờ có miễu, miễu ấy là miễu của làng Phú Lạc lập để thờ ba anh em nhà Tây Sơn. Có người lầm tưởng trong miễu này để sắc thần làng Kiên Mỹ. Sự thật th́ sắc thần để tại nhà viên thủ chỉ. C̣n miễu thờ thần ở phía sau đ́nh Kiên Mỹ.

[104] Hỷ là tên tộc của Tạo.

[105] Ông thân tôi làm thông ngôn cho hăng dệt Délignon, tuy là vai em nhưng vẫn được gọi các cậu gọi bằng thầy v́ kính nể.

[106] Bùi Sơn Nhi là con cháu bà Bùi Thị Xuân và biết rất nhiều về nhà Tây Sơn.