Ngoài Vơ Văn Dũng, c̣n một số lương tướng
nữa thoát luật ác nghiệt của Gia Long, như:
- Đặng Xuân Phong năm Cảnh Thịnh thứ ba,
được thăng chức Thái Phó, ban tước Huyện Công Tuy Viễn. Đến khi Nguyễn Bảo bị
giết, bà họ Trần đem con cháu lên An Khê lánh nạn, th́ Đặng công từ quan lui về
Dơng Ḥa dưỡng lăo. Được năm năm, nghe tin Phú Xuân thất thủ, Vua Cảnh Thịnh
chạy ra Bắc Thành, Công mở tiệc mời thân bằng cố hữu đến, nói:
- Kẻ hào kiệt ra pḥ nhà Tây Sơn, phần
nhiều đều là bậc trung nghĩa. Nhưng hầu hết đều dày công dày sức trong lúc xây
dựng, mà không một ai đủ khả năng chống đỡ trong lúc ngă nghiêng! Nay mai mà
Nguyễn Phúc Ánh thu trọn cả Bắc Nam, th́ đất bằng nổi sóng, đám cựu thần nhà Tây
Sơn, không c̣n chỗ đặt tay chân. Nếu đợi nước đến trôn, th́ không c̣n nhảy kịp
nữa.
Mấy hôm sau, có người đến thăm, th́ thấy
nhà không vườn trống. Đặng công đưa gia quyến đi lúc nào và đi về đâu, không một
ai hay biết.
+ Phan Văn Lân, lo việc biên pḥng, nghe
tin Cảnh Thịnh đoạt sự nghiệp của Thái Đức, than dài một tiếng:
- Luân thường đă đứt, sự nghiệp không thể
nào vững được lâu! Rồi giao công việc trong quân cho vị phó tướng, về An Thái
thăm thầy. Thầy đă mất rồi, pḥ mă Trương Văn Đa cũng đă mất. Nơi xưa không c̣n
ai là người cũ. Công bèn hỏi thăm phần mộ, ra thắp hương lạy thầy, ra đi... Như
đám mây trôi trên ngàn thẳm.
+ Phạm Công Chánh trấn thủ Quảng Nam, Lê
Sĩ Hoàng trấn thủ Quảng Nghĩa, nghe tin Bắc Thành thất thủ, liền mở kho phân
phát hết quân lương quân trang cho binh sĩ, cho mọi người về quê quán làm ăn,
c̣n ḿnh th́ một thương một ngựa ra đi. Phạm Công Chánh về ẩn núi Phương Phi tại
Phù Cát, sau ra Cao Bằng. Lê Sĩ Hoàng về Quảng Nam, lên ẩn nơi Ngũ Hành Sơn.
+ Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc ở Quy
Nhơn, cũng như Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, sau khi
được tin Vua Cảnh Thịnh bị bắt, th́ giải tán quân đội. Ông Lộc về Kỳ Sơn, dùng
Hầm Rùa làm nơi trú ẩn. Ông Huy lên Dương An nương náu, thỉnh thoảng về Phú Yên
thăm quê hương, và ra Kỳ Sơn thăm ông Lộc.
Trừ Vơ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy cũng
như Nguyễn Văn Lộc và hầu hết các tướng c̣n sống sót, không một ai nuôi chí phục
thù.
Một hôm ông Lộc hỏi ông Huy:
- Cựu thần nhà Tây Sơn, văn cũng như vơ,
c̣n khá nhiều tay tài tuấn, sao không hợp sức lại để lo việc phục hưng? Như thế
chẳng ra là không tận trung với cựu chúa hay sao ?
Ông Huy đáp:
- Những anh hùng nghĩa sĩ, ra giúp nhà
Tây Sơn từ ngày mới khởi nghĩa cho đến nay, không ai phụ nhà Tây Sơn. Tất cả đều
lo tṛn bổn phận cho đến giờ chót, như thế là tận trung. Nay nhà Tây Sơn đă
không c̣n nữa th́ chúng ta c̣n trung với ai? Bầy tôi của Vua Lê Chiêu Thống bo
bo giữ ḷng trung với cố chủ, nổi dậy đánh ở miền Bắc, hết lớp này đến lớp khác,
đă chẳng lợi ǵ cho nhà Lê mà c̣n làm khổ dân hại nước. Phải nghĩ đến dân đến
nước trước. Không có thể làm lợi cho dân cho nước th́ nằm yên chớ không nên gây
thêm rối. Trung với một người, một nhà mà làm hại cho dân cho nước, th́ trung
ấy, kẻ chân chính không nên nghĩ đến. Trung ấy không phải là trung.
Nguyễn Phúc Ánh ḍ biết tung tích của một
số cựu tướng nhà Tây Sơn, t́m đủ cách để tận diệt. Nhưng núi non đă hiểm trở lại
thêm người địa phương che chở, nên mọi người đều sống yên. Không bắt giết được,
Nguyễn Phúc Ánh bèn dụ hàng, nhưng không người nào đáp ứng.
Báo quốc nhất thân đô thị đảm
Giao t́nh thiên tải chỉ luân tâm[100]
Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng
khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Đức, Vua Quang Trung, chém giết ḍng họ, tướng tá
nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, c̣n truyền đào mồ mả của
cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đă theo nhà Tây Sơn và đă
chết trước khi non sông đổi chủ.
Quan quân nhà Nguyễn chú ư nhất là những
mồ mả ở trong vùng đất Tây Sơn.
Trước hết là mộ ông Nguyễn Phi Phúc.
Truyền rằng mộ nằm trên dăy Hoành Sơn,
thôn Trinh Tường.
T́m khắp nơi, th́ thấy sát chân núi phía
đông, khoảng giữa, nổi lên một trảng đất lum lum, trong khoảng này dáng núi hơi
cong cong. Đứng phía trước trông vào th́ phảng phất giống một chiếc ghế bành vĩ
đại, mà lưng và tay tựa vào núi, c̣n mặt ghế là trảng đất. Trên trảng đất, nằm
song song hai tảng đá xanh to lớn, h́nh chữ nhật. Người ta bảo đó là mộ của vợ
chồng Nguyễn Phi Phúc. Bọn đào mồ mừng rỡ, ra sức cạy hai tảng đá lên. Hài cốt
không thấy đâu mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đă lưng, trong mỗi chum có một
ngọn đèn chong đương cháy[101].
Ai cũng biết bốn chum dầu đó là của nhà
Tây Sơn chôn, song mục đích để làm ǵ, thật không ai biết. Biết rằng không phải
mộ ông Phúc, quân nhà Nguyễn t́m khắp nơi, song không thấy dấu tích.
Những mả vôi to lớn ở trong vùng B́nh Khê
đều bị quật.
Có ba khóm lớn nhất, một ở bờ sông Côn
phía Trinh Tường, một ở thôn Phú Lạc, một ở thôn Kiên Mỹ, trên bờ sông Côn.
Xương cốt đều ném xuống sông!
Những ngôi mộ này là mộ của các vị đại
thần pḥ Vua Thái Đức.
Ở thôn Trường Định cũng có ba ngôi mộ
rộng lớn và rất kiên cố của đại thần nhà Tây Sơn. Nhưng khi nghe tin Quy Nhơn bị
Phúc Ánh chiếm th́ gia đ́nh người khuất liền đục bỏ bia cũ, thay vào tấm bia mới
mang tên đàn bà. Nhờ vậy mà khỏi bị quật[102].
Nhà Tây Sơn dẫy cỏ không sạch nên nhà
Nguyễn mọc trở lại. Để nhà Tây Sơn khỏi mọc lại, Nguyễn Phúc Ánh cho dẫy tận
gốc. Nhưng than ôi, đến cả gốc cỏ đă khô gần mục mà cũng bị dẫy! Quả là độc thủ!
Để tránh nạn tru di, con cháu những người
có liên hệ ít nhiều đến nhà Tây Sơn, phần nhiều đều phải thay tên đổi họ, đi ẩn
náu ngoài xứ lạ nơi xa.
Chính sách dẫy cỏ thật sạch gốc của Gia
Long làm lụy chẳng những người mà c̣n đến cả vật, nhất là vùng Tây Sơn.
Sách vở, giấy tờ đều bị tiêu hủy. Điển
h́nh là những tập gia phả của họ Vơ ở Phú Phong, họ Bùi ở Xuân Ḥa, họ Đặng ở
Dơng Ḥa, họ Trần ở Trường Định... Cho đến những bộ sử, những tập thơ văn... sản
xuất đời Tây Sơn cũng cấm không được lưu hành, tàng trữ, như bộ Trần Triều Thông
Sử Cương Mục của Lê Văn Nhân ở An Nhơn, phụng chiếu soạn năm Quang Trung thứ tư
(1791), bộ Lê Triều Thực Lực do Vơ Xuân Hoài tổng tu dưới triều Cảnh Thịnh...
Những tập thơ Hán có Nôm có của nhóm Tứ Tài Tử ở Tuy Viễn và Song Hoài Thi Xă ở
Bồng Sơn, tập thơ ca văn tế bằng chữ Nôm của La Xuân Kiều ở Phù Cát v.v...
Những môn vơ thời Tây Sơn thường dùng,
một số bị cấm. Thời Tây Sơn vơ nghệ rất thịnh. Có bốn môn nổi tiếng là Côn,
Quyền, Kiếm, Cổ. Nhưng khi đem áp dụng vào việc binh th́ quyền thay thế bằng kỳ.
Côn, quyền, kiếm thời nào cũng có nơi nào
cũng có. Chỉ có môn kỳ và cổ e chỉ B́nh Định mới có và chỉ đời Tây Sơn mới dùng.
Kỳ là cờ - lá cờ vuông mỗi bề rộng chừng
hai sải dệt bằng thao càn rất dày rất chắc, trừ phía kết vào cán cờ, ba phía kia
đều móc sắt thay tua. Lá cờ vừa dùng để chỉ huy vừa dùng để giết giặc.
Phải là người có sức mạnh và có vơ giỏi,
mới sử dụng được.
Cổ là trống. Trống lớn như trống chầu.
Khi tập luyện th́ đứng trên hai khối gỗ tṛn lớn gấp đôi quả bưởi. Đôi chân phải
điều khiển hai khối tṛn đó một cách lanh lẹ. C̣n cùi chỏ, bàn tay, vai, đầu đều
phải dùng để đánh và đỡ mấy cái trống, theo từng bài luyện vơ. Khi th́ dùng hai
trống, khi th́ dùng bốn, khi th́ dùng tám, khi th́ dùng mười ai, tùy tŕnh độ và
sức vóc của vơ sĩ. Trống treo ở trước mặt. Biểu diễn một lần từ một đến sáu
người. Mỗi người hai trống. Không phải người nào đứng chỗ nấy, mà luôn luôn đổi
chỗ lẫn nhau.
Khi ra trận th́ dùng hai trống, đặt trên
xe đẩy, và dùng dùi trống thay tay. Dùi trống không phải chỉ dùng để đánh trống
thúc quân mà c̣n dùng làm khí giới giết địch.
Gia Long cấm kỳ, kiếm, cổ.
Kỳ không bị cấm cũng không ai dùng nổi và
cũng không ai học làm ǵ trong lúc không chiến tranh.
Kiếm chẳng những cấm dạy cấm học, mà
trong nhà có kiếm cũng bị tội.
Cấm kiếm lẽ tất nhiên cũng cấm luôn đao.
Cho nên nghề kiếm và đao ở B́nh Định bị
mất hẳn.
C̣n cổ th́ cũng thất truyền. Và môn vơ
biến thành môn nhạc. Vơ th́ đánh trống chầu và đánh trống treo. Nhạc th́ đánh
trống chiến và trống để đứng. Nhưng những bài luyện vơ vẫn được đem dùng vào
việc đánh nhạc.
Nói tóm lại là tất cả những tinh ba của
đất nước sản xuất thời Tây Sơn, đều bị Gia Long t́m đủ cách để tận diệt. Tận
diệt để không c̣n ǵ làm cho người đời nhớ đến Tây Sơn.
Tên vùng đất phát tích ra nhà Tây Sơn
cũng bị đổi ra An Tây.
Diệt tận gốc, nhổ sạch rễ!
Nhưng chỉ bên ngoài thôi.
Ḷng người Việt Nam yêu nước, nhất là
người B́nh Định, đâu có quên nhà Tây Sơn.
L̉NG DÂN ĐỐI VỚI NHÀ TÂY
SƠN
Danh người anh hùng dân tộc Quang Trung
Nguyễn Huệ, người đă hai phen thảo quân xâm lược do Duy Kỳ thỉnh về, Nguyễn Phúc
Ánh rước tới, cứu nhân dân Việt Nam thoát ṿng nô lệ của ngoại quốc, cùng mặt
trăng mặt trời rạng rỡ trên sông núi Việt Nam.
Và nghĩ rằng nếu không có Vua Thái Đức mở
đường, Đông Định Vương giúp sức th́ chắc ǵ đă có những chiến công oanh liệt của
Vua Quang Trung, nên người B́nh Định, nhất là người B́nh Khê, ghi nhớ cả ba
người anh hùng áo vải
Bởi vậy, sau khi ngôi từ đường của nhà
Tây Sơn ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn phá hủy th́ ngôi đ́nh làng thay thế vào.
Đ́nh làng dựng lên để thờ thần. Nhưng
nhân dân địa phương đem sắc thần để một ngôi miếu khác, c̣n đ́nh th́ bí mật thờ
ba Vua Tây Sơn. Xuân kỳ thu tế, nhưng chỉ vái thầm chớ không đọc văn.
Ngoài xuân kỳ thu tế, c̣n ngày kỵ của ba
vua vào tháng 11 âm lịch. Để che mắt vua quan nhà Nguyễn, ngày kỵ gọi trại là
ngày cúng cơm mới.
Lâu ngày chánh quyền địa phương biết
được, nhưng một mặt sợ thần linh bẻ họng, một mặt sợ thất nhân tâm, nên bóp bụng
làm lơ.
Ḷng kính yêu nhớ tiếc ba Vua Tây Sơn
thấm thía và bền bỉ, chẳng những ở trên tầng lớp sĩ phu mà cả dưới mọi tầng lớp
nhân dân. Bất kỳ trẻ già trai gái, hễ đi qua đ́nh Kiên Mỹ, là lấy nón cúi đầu.
Khách đi ngựa đi vơng đều phải xuống ngựa xuống vơng.
Và ca dao địa phương có câu:
Đá Hàng cữ nước không sâu
Hàng Thuyền lai láng mặc dầu cá đua.
Có đua sông trước th́ đua
Sông sau mắc miễu thờ Vua xin đừng[103].
Ḷng kính yêu nhớ tiếc nhà Tây Sơn chẳng
những ở thời trước, mà cho đến năm 1945 vẫn nồng nàn như cũ. Xuân kỳ thu tế,
ngày kỵ cúng cơm mới trong năm 1945 vẫn cử hành theo thường lệ. Đến năm 1947 có
lệnh tiêu thổ kháng chiến, đ́nh miễu bị phá hủy, việc cúng tế mới thôi.
Năm 1960, nhân dân B́nh Khê chung tiền
chung sức lập lại đền thờ Tây Sơn nơi đ́nh cũ.
Đền không lấy ǵ làm rộng lớn, song trang
nghiêm. Đối với sự nghiệp anh hùng thật không xứng. Nhưng đối với hoàn cảnh
thiếu thốn của nhân dân địa phương lúc bấy giờ, th́ chừng ấy cũng là một cố gắng
vượt mức.
Đền có ba gian.
Gian giữa thờ vua Quang Trung.
Hai bên thờ vua Thái Đức và Đông Định
Vương.
Trước sân có tượng bán thân của Vua Quang
Trung và có bi đ́nh khắc bài kư tán tụng công đức nhà vua:
Đức Vũ Hoàng,
Họ Nguyễn, húy Huệ.
Ứng hùng năm Quư Dậu (1753),
Thừa long năm Nhâm Tư (1792)
Thọ 40 tuổi, ở ngôi 5 năm.
Niên hiệu Quang Trung.
Miếu hiệu Thái Tổ Vũ Hoàng Đế.
Tổ tiên vốn người Châu Hoan, dời vào ấp
Tây Sơn được bốn đời. Trước ở Phú Lạc, sau xuống Kiên Thành buổi tiềm long,
chính nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ.
Vũ Hoàng có ba anh em.
Anh là Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, thiệp
thế đa mưu.
Em là Đông Định Vương Nguyễn Lữ, thành
tín nhân hậu.
C̣n Vũ Hoàng: Sức mạnh cử đảnh, tài dụng
binh như thần, lại sùng thượng kinh văn, quư trọng đạo lư. Kẻ cao tài đại đức
được tôn kính vào bậc thầy. Văn vơ dưới cờ đều những trang khai quốc tuấn kiệt.
Thân bố y, tay trường kiếm, Vũ Hoàng gồm
cả khí tượng họ Hạng họ Lưu.
Quả là cái thế anh hùng vậy.
Năm Tân Măo (1771), thống tâm v́ cảnh đất
chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay chân, ba anh em Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa
binh, chịu gian nan mà dấy nghiệp. Lấy thành Quy Nhơn làm căn cứ. Rồi đánh vào
Nam, tiến ra Bắc. Ḷng xa gần đều theo. Trăm trận trăm thắng. Thanh thế nhà Tây
Sơn lẫy lừng.
Riêng Vũ Hoàng. Bốn lần bạt thành Gia
Định, ba lần vào thành Thăng Long. Thắng chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non
sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Vơ Thang.
Lại hai phen thảo quân xâm lược:
Năm Giáp Th́n (1784) quét sạch 300 chiến
thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong rước tới.
Năm Kỷ Dậu (1789), đánh tan 20 vạn hùng
binh Măn Thanh do Duy Kỳ khất lân lĩnh về.
Nhờ vậy mà dân tộc thoát ách vong nô.
Nhờ vậy mà tổ quốc vững nền độc lập.
Công thật cao như Trường Sơn.
Ân thật sâu như Nam Hải.
Non sông đăng định, Vũ Hoàng chăm lo việc
trị b́nh.
Đắp quốc cơ theo tôn chỉ phú cường. Sửa
chính sự cho kỷ cương nghiêm túc. Dùng chữ Nôm làm quốc gia văn tự. Lập Sùng
Chính viện để đào tạo nhân tài.
Và cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa
rửa xong, Vũ Hoàng luyện tướng nuôi binh, quyết khôi phục phần đất Lưỡng Quảng.
Nhưng than ôi!
Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá,
Chín tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa.
Khiến nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong!
Khiến nước Việt Nam lỡ mất cơ cường
thịnh!
Tuy nhiên,
Danh Vũ Hoàng vẫn cùng mặt trăng mặt trời
mà sáng. Ân Vũ Hoàng vẫn cùng núi Trưng núi Tượng mà cao. Và nhân dân Việt Nam
vẫn ca rằng:
Non Tây áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công
tŕnh.
Tiết Trọng Xuân năm Tân Sửu (1961)
Nhân dân B́nh Khê cẩn kư.
Sau khi đền lạc thành, cứ mỗi năm, đến ngày lễ Đống Đa, nhân
dân toàn tỉnh B́nh Định hợp nhau tại đền làm lễ kỷ niệm. Lễ kỷ niệm cử hành theo
cổ lễ, nhưng những cuộc vui th́ có mới có xưa. Người đến dự lễ vô cùng đông đúc.
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Và riêng nhân dân B́nh Khê, rằm tháng 11
âm lịch, lại tổ chức ngày kỵ ba Vua theo thường lệ.
Trong buổi lễ Đống Đa và ngày kỵ đều có
đọc văn tế và cử nhạc theo cổ lễ.
Hai bài văn tế đầu tiên:
Văn Tế Đống Đa:
“ Than ôi!
Ḍng Côn thủy mây lồng thức gấm, măn
vui t́nh mai liễu độ xuân;
Đỉnh Trường Sơn gió cuộn sóng tùng,
chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.
Nhớ tôn linh xưa:
Khí cốt lăng tằng,
Anh tư khôi đặc.
Sức điều binh khiển tướng, Hạng Vơ Lưu
Bang Ḷng trọng sĩ tôn hiền, Văn Vương Huyền Đức, T́nh đất nước giận cơn chia
xẻ, lưỡi gươm thần dẹp loạn cứu dân; Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn, thân áo vải
giúp anh dựng nước.
Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường
vân,
Thuận Hóa trời cao, chói chang vầng bạch nhật. Xiêm phê áp phủ, trên chín trùng
toan mối trị b́nh, Vuốt dũa nanh mài, ngoài muôn dặm rắp tâm xâm lược. Cơng rắn
tội ḱa ai?
Bắt hùm tay sẵn chước.
Tế Trời Đất đàn Giao cao vút vút, bóng
tinh kỳ sáng dọi buổi đăng quang.
Nh́n non sông khí giận ngất từng mây,
tiếng hiệu lệnh sấm vang giờ xuất phát. Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh!
Chiến tượng hai trăm tinh trường trận
mạc.
Ḷng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn
nước non ca khúc khải hoàn sau.
Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang, cùng
tướng sĩ chung vui Nguyên Đán trước.
Cạn lời ủy lạo, trống giục cờ giong:
Dốc dạ truy tùy, non băng biển vượt.
Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh;
Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hăm giặc.
Đánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng:
Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá nát.
Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt
lương rừng lửa đỏ, khiến ba quân liều chết chớ lui;
Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn
cổ thước khăn vàng, quyết một trận chẳng hơn th́ thác.
Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ, thuốc
súng chôn quanh thành, chông sắt cắm khắp lũy, thêm bốn bề đạn rạc rào mưa;
Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván dày
cột thành cốt, rơm ướt phủ làm b́, ḥ một rập sức cuồn cuộn thác, Ầm tiếng pháo,
Ngọc Hồi kịp hạ, sông máu láng lai; Thúc chân voi, Khương Thượng liều thân, núi
thây chồng chất. Nghi Đống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ Đống Đa! Sĩ
Nghị may t́m được lối ra, hớt hải thoát thân mạn Bắc. Ngoài ải sói gió tan mùi
sát khí, niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên; Vào thành Long cờ rợp bóng vinh
quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược. Mười ngày hẹn trước, trời đất chứng
lời vàng;
Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc.
Lửa tạnh hề biên cương
Nền cao hề xă tắc,
Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy sấm,
Triều Măn Thanh bóp bụng sống chung trời;
Chí đấu tranh gan sắt vững vàng non,
Niềm Lưỡng Quảng quyết tâm đ̣i lại đất,
Nhưng than ôi!
Tấm gan rèn đá, trời chửa vá xong;
Đỉnh Ngự ch́m mây, rồng sao vội khuất!
Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi ḍn thoi phút để mối tơ chùng!
Nghiệp đế vương đuối sức giữ ǵn,
Thuyền thuận bến trúc theo cơn gió lật!
Trời Phú Xuân sương gió lạnh lùng!
Biển Thị Nại bèo mây tản mác!
Bút chép sử múa men tay đắc thế: trang oanh liệt son nḥa!
Nền ghi ân khuất lấp bóng cô thôn: gương anh hùng thủy nhạt!
Nối chí cả người sau toan lấp hận,
Lao công Tinh Vệ, ngậm ngùi thương.
Ǵn dấu linh chốn cũ khó nguôi t́nh,
Lắng giọng đề quyên tê tái ruột,
Cũng may thay!
Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,
Ách chuyên chế giống ṇi nay đă thoát,
Trăng hào kiệt bấy lâu u ám, ngọn đông phong mát mẻ vén
màn sương;
Vườn anh hoa đua nở tự do, bút thanh nghị ngọt ngào rơi
giọt móc
Chúng tôi nay:
Chung gội ơn xuân.
Kính dâng lễ bạc,
Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ màng,
Nội thắm ngàn xa, hương tinh thành bát ngát.
Ḍng lịch sử mở ra ôn lại, dịu dàng chữ gấm dệt lời hoa.
Tranh vĩ nhân trải rộng xem chung, lộng lẫy chỉ vàng treo bóng ác.
Hầm hô con cá nhảy, trong bóng mây thấp thoáng bóng rồng
Trưng Lĩnh cánh diều bay, theo tiếng gió lẫy lừng tiếng
nhạc.
Linh thiêng xin chứng.
Bài văn nhân dân B́nh Khê tế Tây Sơn tam kiệt ngày rằm
tháng 11.
“Duy!
Nước bị qua phân,
Nhà sanh tam kiệt,
Non Tây áo vải, phất nghĩa kỳ dẹp loạn an dân.
Đất Việt khí thiêng, tung bửu kiếm diệt thù cứu nước.
Nền đế nghiệp xây cao trời một cơi,
Bước tiền đồ hoa cỏ đón mừng xuân;
Tiếng anh hùng vang dội sấm mười phương,
Miền biên tái sài lang im lặng dấu.
Ví thử bóng rồng không vội khuất
Th́ chi đuôi ngạc dễ mà tung.
Biển nên cồn thời vận khéo xui, tay bé không xoay trời đất
lại;
Đất vá khuyết cơ duyên chưa gặp, dấu linh c̣n tạc nước non
đây.
Nhân dân B́nh Khê chúng tôi:
Lắng hơi quyên trằn trọc giấc canh chầy.
Mơ bóng hạc thẫn thờ đêm nguyệt rạng.
Đền cũ dâng ḷng hương một nén;
Bia xanh tạc đức ngọc muôn hàng.
Cá nhớ nguồn lên xuống nước Côn giang, dạ nhắc dạ mồi thơm
chẳng tưởng;
Chim mến cội đi về cây Tượng Lĩnh, đàn gọi đàn g̣ thấp chớ
nương.
Một ḷng nguyện giữ sắt son,
Muôn gội dám quên mưa móc.
Nay:
Niệm kỳ húy nhật, lá vàng điểm tiết hàn đông;
Chứng tấc thành tâm, lễ bạc dâng trời dị lộ.
Trăm thước trầm hương cuồn cuộn gió,
Đôi hàng bạch lạp ngập ngừng châu.
Nâng kim bôi rượu đủ ba tuần, phảng phất long nhan dường
thấy đó;
Trước linh án lễ rồi bốn lạy, mơ màng loan giá trở về đây.
Gương ngh́n thu lai láng ánh quang huy,
Trong khuất tịch cũng không c̣n hắc ám;
Đất ba cơi sáng soi vầng bạch nhật,
Dẫu vô cùng vẫn được hưởng vinh quang.
Lời cầu xin mong thấu cơi u huyền,
Ḷng thành kính ngửa nhờ ơn chiếu giám.
Phục duy,
Thượng hưởng “
Từ khi đền Tây Sơn lập lại, năm năm đều
tế lễ. Lễ Đống Đa thay thế lễ Xuân Thu. Lễ húy nhật vẫn giữ y như cũ. Và tuy đời
đổi mới, lễ vẫn cử hành theo lề lối xưa. Nhưng lần lần, người đọc văn tế có tài
qua đời hết, và cứ đọc đi đọc lại măi một bài nghe cũng chán, nên cứ vài ba năm,
thay văn tế một lần, không thiếu những điểm quan trọng, nhưng gọn gàng dễ đọc.
Có hai bài thường được dùng đến:
Văn Tế lễ Đống Đa:
Non Tây áo vải,
Trời Việt khí thiêng;
Ngọn cờ đào gió thuận ḷng dân,
Mối ly loạn dẹp yên ḍng Trịnh Nguyễn;
Thanh kiếm báu chớp ngời thế trận,
Đường xâm lăng quét sạch giặc Xiêm, Hoa.
Đài vinh quang rạng rỡ giống ṇi,
Nền độc lập vững bền đất nước.
Mây áng Trường Sơn rồng dẫu khuất,
Trăng lồng Quế Hải gấm c̣n giăng.
Đền ghi ân ngào ngạt nén tâm hương, đá tạo ngh́n thu vững
núi;
Bút chép sử ung dung ng̣i chính luận, son pha từng nét đơm
bồng.
Nay chúng tôi:
Đón tiết dương xuân,
Nhớ ngày kỷ niệm.
Ngửa dâng lễ bạc,
Cúi trải niềm son.
Mơ màng trận thắng Đống Đa, hồn chiến sĩ thơm lây chiều gió mới;
Lai láng ḍng trong Côn Thủy, gương anh hùng sáng dọi ánh trăng xưa.
Nén tinh thành mong thấu cơi u linh,
Cơ huyền diệu sớm xoay thời thịnh thái.
Giống Hồng Lạc đơm hoa kết trái, sương nắng chung, mưa móc cùng chung.
T́nh Bắc Nam líp thịt liền xương, dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.
Linh thiêng xin chứng.”
Bài Văn tế ngày kỵ 15 tháng 11:
Tây lĩnh tài cao,
Côn giang đức cả.
Giận Trịnh, Nguyễn cắt t́nh đất nước,
Thêm Phúc Loan đọa kiếp giống ḍng.
Tuốt gươm thần phạt ngụy điếu dân, danh Tam Kiệt nước non lừng lẫy sấm.
Thu mối nước b́nh Nam định Bắc, công ngh́n thu sử sách rơ ràng son.
Nay chúng tôi:
Đối cảnh đông thiên.
Niệm kỳ húy nhật,
Ngọn gió hương đưa hồn Tổ Quốc,
Đầu non thông vút khí anh hùng.
Rượu ba tuần rót chén tinh thành.
Lễ bốn lạy dâng trời dị lộ,
Phảng phất đài mây điện ráng, ngưỡng vọng giáng lâm,
Chít chiu con lạc cháu Hồng, huệ diên phước tải
Thượng hưởng “
Những bài văn kư đă nói lên được trung
thực ḷng người yêu nước đối với nhà Tây Sơn.
Nhưng trong đó ḷng chỉ dám biểu lộ sau
khi nhà Nguyễn đă bị nhân dân đứng lên lật đổ.
Dám biểu lộ trong lúc ách cường quyền c̣n
đè nặng trên cổ nhân dân, th́ long kính yêu nhớ tiếc mới thật là mạnh liệt.
Nguyễn Bá Huân viết:
Cân Quắc anh hùng truyện, Tây Sơn văn thần liệt truyện, Nguyễn Trọng Tŕ viết:
Tây Sơn danh tướng chinh Nam truyện, Tây Sơn lương tướng ngoại truyện v.v...
Các tác phẩm trên ghi chép sự tích, hành
trạng của các anh hùng hào kiệt văn vơ pḥ tá nhà Tây Sơn. Sách viết thời Tự
Đức. Dụng ư đề cao nhà Tây Sơn.
Không phải là danh sơn sự nghiệp mà sách
được phổ biến trong giới trí thức đương thời, trong đó có một đại thần nhà
Nguyễn là Đào Tấn ở Vĩnh Thạnh.
Điều đó chứng minh rằng ḷng người dân
yêu nước đối với nhà Tây Sơn dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.
Đến năm 1975, Bắc Nam thống nhất, đền Tây
Sơn ngót 15 năm thuộc quyền quản trị của nhân dân B́nh Khê, giao lại cho Nhà
nước cách mạng. Đền được mở rộng thêm, và mỗi năm lễ Đống Đa vẫn được tổ chức
trọng thể.
|