Sự Trả Thù Của Nhà Nguyễn

Đối Với Nhà Tây Sơn

 

Tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh trở về Phú Xuân, đem Vua tôi nhà Tây Sơn ra báo thù.

Tất cả các vơ tướng đều bị tử h́nh, Trần Quang Diệu bị lột da, các tướng khác bị voi chà, người trảm quyết.

Từ vị đại tướng đến viên tùy tướng, thảy thảy đều giữ bản sắc anh hùng, không một nét sợ hăi, không một lời cầu nhiêu, hiên ngang, khẳng khái.

Riêng đối với Bùi Thị Xuân, Nguyễn Phúc Ánh dùng h́nh phạt khốc liệt nhất quán cổ kim!

Vốn nghe danh nữ kiệt, Nguyễn Phúc Ánh truyền đem đến xem mặt, Nguyễn Phúc Ánh tự đắc hỏi:

- Ta và Nguyễn Huệ, ai hơn?


Nữ kiệt ung dung đáp:

- Nói về tài ba th́ Tiên Đế ta bách chiến bách thắng, hai bàn tay trắng dựng nên cơ đồ. C̣n nhà ngươi bị đánh phải trốn chui trốn nhủi, phải cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp. Chỗ hơn kém rơ ràng như ao trời nước vũng. C̣n nói về đức độ, th́ Tiên Đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đă đối với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. C̣n nhà ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với những bậc nghĩa liệt, đă hết ḷng v́ chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người tức là khuyến khích tôi ḿnh trung với ḿnh. Chỗ hơn kém cũng rơ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên Đế ta đừng thừa long sớm, th́ dễ ǵ nhà ngươi trở lại đất nước này.

Nguyễn Phúc Ánh hỏi gằn:

- Nhà ngươi có tài sao không giữ ngai vàng cho Cảnh Thịnh ?

Nữ kiệt đáp:

- Nếu có thêm một nhi nữ như ta nữa th́ cửa Nhật Lệ không dễ ǵ mà lạnh. Cửa Nhật Lệ không để lạnh, th́ nhà ngươi cũng khó mà đặt chân lên đất Bắc Hà. Nguyễn Phúc Ánh hỏi có muốn xin ân xá không? Nữ kiệt đáp:

- Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ ḿnh trước một kẻ tiểu nhân đắc thế? Nguyễn Phúc Ánh căm gan, dằn từng tiếng.

- Không chịu nhục? Ta sẽ làm cho mi biết nhục.

Liền truyền lệnh: Đem Bùi Thị Xuân về B́nh Định, cởi bỏ hết quần áo, cột đứng trên tù xa đẩy đi khắp các nơi thị tứ.

Nhân dân B́nh Định nghe tin, không ai bảo ai, mà mỗi lần xe nữ kiệt đi qua, th́ nhà hai bên đường đều đóng kín cửa, người đi đường, người nhóm chợ, đều ngoảnh mặt bỏ tránh xa.

Xe đến vùng Đập Đá là nơi dệt lụa, th́ những tấm lụa tinh khôi bay tung vào xe. Lớp bị bọn tướng sĩ hộ tống vung gươm chém đứt, theo gió bay lên không trung, lớp rơi vào xe phủ kín châu thân nữ kiệt.

Nữ kiệt lại bị giải về Phú Xuân, Nguyễn Phúc Ánh hỏi:

- Đă biết nhục chưa?

- Nhục nào có vương vào thân ta, mà chính đổ lên đầu nhà ngươi, con người tánh độc hơn sài lang, ḷng nhớp hơn cẩu trệ.

Nguyễn Phúc Ánh tức giận, truyền bắt mấy người con của nữ kiệt đem ra giết trước mặt nữ kiệt: Mấy người con nhỏ th́ sai lực sĩ bỏ vào bao vải, đánh nát thây. C̣n người con gái lớn th́ cho voi xé xác. Thấy voi đến, người con gái hoảng sợ kêu lên:

- Mẹ ơi! Cứu con với!

Nữ kiệt hét lớn:

- Con nhà tướng không được khiếp nhược.

Người con gái liền nhắm mắt thọ h́nh, không một tiếng rên rĩ. Đến lượt nữ kiệt.

Chúng trói nữ kiệt để nằm ngửa trên cỏ. Ba hồi trống dứt, một con voi to lớn hung hăng chạy đến, giơ chân toan chà. Nữ kiệt trợn mắt hét một tiếng như sấm nổ. Con voi thất kinh thối lui. Bị nài giục, voi bước tới một lần nữa, nhưng vừa bước tới liền dừng bước ngay, thúc mấy cũng không dám tiến. Lính lấy giáo đâm, voi thét lên một tiếng rồi bỏ chạy.

Nguyễn Phúc Ánh tức ḿnh, sai dùng h́nh phạt điểm thiên đăng.

Chúng lấy vải nhúng sáp nóng đem quấn khắp ḿnh nữ kiệt, rồi đem cột nữ kiệt nơi trụ sắt dựng giữa trời. Đoạn châm lửa đốt. Nữ kiệt b́nh tĩnh, nét mặt không chút thay đổi. Lửa cháy phừng phực từ dưới lên trên, sáng chói thấu mây. Ai nấy đều xúc động.

Riêng Nguyễn Phúc Ánh tỏ vẻ hân hoan!

Lửa cháy hồi lâu. Bốn bề im phăng phắc. Bỗng một tiếng nổ.

Sọ nữ kiệt vỡ. Một lằn thanh quang bay vút lên tầng xanh!

Xử tướng vơ xong, xử đến các quan văn.

Phần nhiều đều được tha về cho làm ăn.

Riêng Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích th́ bị giải về Thăng Long và đánh đ̣n tại Văn Miếu.

Phan Huy Ích c̣n sống trở về nhà.

Ngô Thời Nhậm bị Đặng Trần Thường đánh chết.

Đặng Trần Thường là một danh sĩ Bắc Hà. Lúc Ngô Thời Nhậm được Vua Quang Trung trọng dụng, th́ Đặng Trần Thường đến xin Ngô tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Ngô thét bảo Thường:

- Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh giúp Vua cai trị nước. c̣n muốn vào ḷn ra cúi th́ đi nơi khác.

Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gói vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh.

Nay đắc thế liền trả thù xưa.

Đó là đối với bề tôi nhà Tây Sơn. C̣n đối với nhà Tây Sơn th́ Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả ḍng họ, từ Vua Bửu Hưng, cho tới một em bé mới sanh mà đă lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Đức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. C̣n sọ th́ đem xiềng nơi ngục thất trong hoàng cung để làm lọ đi tiểu.

Để nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những tướng tá của Tây Sơn c̣n trốn tránh nơi sơn dă.
            Hai người con Vua Thái Đức là Văn Đức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Đẩu, nương náu nơi Mộ Điểu, vùng An Khê. Vua tôi nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Măi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy t́nh thế đă yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật báo. Quân nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết.

Các danh tướng giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp, phần lớn đă qua đời, như:

- Nguyễn Văn Tuyết đă cùng vợ con tuẫn nghĩa sau khi thất thủ Bắc Thành.

- Vơ Văn Nhậm bị Nguyễn Huệ giết chết.

Đặng Xuân Bảo hy sinh trong trận Nguyễn Phúc Ánh đánh lấy Thanh Hóa.

- Ngô Văn Sở bị d́m xuống sông v́ nạn Bùi Đắc Tuyên.

- Lê Văn Hưng bị Cảnh Thịnh nghe lời Bùi Đắc Tuyên giết chết.

- Vơ Đ́nh Tú bị trúng tên chết lúc Nguyễn Phúc Ánh đem đại binh đánh Quy Nhơn.

- Lê Văn Trung bị Cảnh Thịnh giết.

C̣n sống ở ngoài tầm nanh vuốt của Gia Long chỉ được ít người: Vơ Văn Dũng, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Phan Văn Lân, Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn Lộc.

Sau khi thoát nạn, Vơ trở về Phú Phong, rồi lên An Khê, chiêu mộ được một số người Thượng, chuẩn bị việc phục thù. Lấy ḥn Hợi Sơn ở Trinh Tường (B́nh Khê) làm căn cứ quân sự. Do đó mà Hợi Sơn c̣n có tên là ḥn Ông Dũng.

Nghe tin Đặng Văn Long ẩn náu ở Vân Hội (Tuy Viễn) bèn t́m đến bàn đại sự.

Đặng Văn Long, sau trận Đống Đa th́ đă có ư lui gót. Nhưng v́ mấy kẻ bề tôi của Lê Chiêu Thống không nghĩ đến tội cơng rắn của ḿnh, cứ nổi lên chống lại nhà Tây Sơn, nên Đặng phải nán lại để đánh dẹp. Đến khi thấy Cảnh Thịnh để cho quần thần lộng hành, mối nước sanh rối, Đặng bèn từ chức, trở về An Nhơn mở trường dạy vơ. Nhưng rồi thấy kẻ học vơ lúc này không có chí lớn, ai nấy cũng chỉ nghĩ đến lợi riêng, Đặng liền đóng cửa trường, lên núi làm rẫy.

Vơ Văn Dũng đến, Đặng mừng được gặp lại cố tri. Nhưng khi nghe Vơ bàn đến chuyện phục hưng th́ lắc đầu, đáp:

- Tôi ra giúp nhà Tây Sơn đâu phải v́ nhà Tây Sơn mà chính v́ Tổ quốc. Nếu giặc Thanh không mang quân sang xâm lấn nước ta, th́ tôi măi làm con hạc nội, máu đâu dính đến tay. C̣n về nhà Tây Sơn, chính Cảnh Thịnh đă làm mất. Song nếu Vũ Hoàng không bỏ đích lập thứ th́ đâu đến nỗi nước này?! Nay đất đă mất mà ḷng người cũng mất, hỏi c̣n mong làm được việc ǵ nữa? Mà dù có làm được nữa th́ làm để làm ǵ, nếu không phải để tranh chiếm ngôi báu? Tranh cho ai? Cho nhà Tây Sơn hay cho chính ḿnh? Thôi, trên ba mươi năm trời đánh nhau, nhân dân đă điêu đứng rồi, không nên gieo rắc thêm tang tóc.

Vơ ra về, Đặng lên ở luôn trên núi. Trong nơi mây khói, không ai biết Đặng ở ngọn núi nào trong dăy Nam Sơn.

Ư kiến của Đặng Văn Long không lay chuyển ư chí của Vơ Văn Dũng nổi.

Về B́nh Khê, Vơ Văn Dũng tiếp tục xây dựng lực lượng chiến đấu. Toàn vùng An Khê và những vùng ở hai bên bờ sông Côn, như Tiên Thuận, Vĩnh Thạnh, Đồng Phó, Hà Nhung, Trinh Tường, Phú Lạc, Phú Phong, Kiên Mỹ... đều nằm trong phạm vi hoạt động của Vơ công. Nhưng được ít lâu, người Thượng Xà Đàng bị nhà Nguyễn mua chuộc, rục rịch làm phản. Công phải bỏ hết cơ sở, đem ba chú cháu Văn Đức, Văn Lương, Văn Đẩu lên ẩn náu tận trên Núi Xanh.

Ca dao địa phương có câu:
Củ lang đồng Phó, đỗ phộng Hà Nhung
Chàng ḅn thiếp mót để chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi...
Chim kêu dưới suối Từ Bi

Nghĩa nhân c̣n bỏ huống chi cái gùi

Đó là mượn thể tỷ để nói về việc bất ḥa giữa Vơ công và người Thượng.

Vơ công lên Núi Xanh ở cùng ba chú cháu Văn Đức cho đến khi ba chú cháu bị sa vào lưới Vua Minh Mạng. C̣n trơ trọi một ḿnh, công vẫn sống một cách tự tại ngót mười năm nữa. Công mất dưới triều Thiệu Trị, không rơ năm nào, sống trên chín mươi tuổi. Măi đến khoảng Đồng Khánh, Thành Thái (1885-1907), con cháu mới lấy cốt đem về chôn ở Phú Phong.

Cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Tŕ có bài Vịnh Vơ Đô Đốc:

Tạo vật khốn hào kiệt
Y tương sử hữu vi
Công danh vị túc ngôn
Hoặc tác xuất thể ty (tư)
Vơ công dũng quán quân
Bách chiến khởi Tây thùy
Thiên phương yểu trung nguyên
Đăi phi nhất mộc chi
Thoát thân tứ thập niên
Thế nhân thức công thùy
Đản kinh sơn thạch gian
Hữu thử hùng báo ty (tư)
Ngă diệc chí phương ngoại
Bạch đầu vị phùng sư
Niên niên hạnh thế phóng
Thảng toại dữ thế từ
Tùng công du Ngũ Nhạc
Khể thủ thôn linh chi
Kim cốt hoán lục tủy
Khiêm nhiên tùng sao phi

Nghĩa là:


Tạo hóa làm khốn đốn kẻ hào kiệt
Ư muốn cho họ làm một việc ǵ.
Công danh không đủ nói,
Hoặc giả bày ra cơ hội để họ thoát đời.
Cái dũng của Vơ công thật quán quân,
Từ biên giới phía Tây nổi lên, trăm trận trăm thắng
Nhưng trời muốn dứt nửa chừng
Th́ một cây không chống nổi.
Thoát ḿnh khỏi nạn ngót bốn mươi năm
Người đời ai biết ông?
Sống lâu ngày trong nơi núi vây đá chất
Ông có tư thế mạnh như gấu như hùm
Tôi cũng có ư muốn xuất thế,
Nhưng đă bạc đầu mà chưa gặp được thầy.
Làm quan may được đuổi về
Năm năm rảnh rang
Muốn thoát khỏi cuộc đời
Theo ông đi dạo chơi khắp năm ngọn núi Tiên
Cúi đầu ăn cỏ linh chi,
Xương vàng đổi tủy xanh
Nhẹ nhàng bay theo sóng tùng.

 

Ngoài Vơ Văn Dũng, c̣n một số lương tướng nữa thoát luật ác nghiệt của Gia Long, như:

- Đặng Xuân Phong năm Cảnh Thịnh thứ ba, được thăng chức Thái Phó, ban tước Huyện Công Tuy Viễn. Đến khi Nguyễn Bảo bị giết, bà họ Trần đem con cháu lên An Khê lánh nạn, th́ Đặng công từ quan lui về Dơng Ḥa dưỡng lăo. Được năm năm, nghe tin Phú Xuân thất thủ, Vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc Thành, Công mở tiệc mời thân bằng cố hữu đến, nói:

- Kẻ hào kiệt ra pḥ nhà Tây Sơn, phần nhiều đều là bậc trung nghĩa. Nhưng hầu hết đều dày công dày sức trong lúc xây dựng, mà không một ai đủ khả năng chống đỡ trong lúc ngă nghiêng! Nay mai mà Nguyễn Phúc Ánh thu trọn cả Bắc Nam, th́ đất bằng nổi sóng, đám cựu thần nhà Tây Sơn, không c̣n chỗ đặt tay chân. Nếu đợi nước đến trôn, th́ không c̣n nhảy kịp nữa.

Mấy hôm sau, có người đến thăm, th́ thấy nhà không vườn trống. Đặng công đưa gia quyến đi lúc nào và đi về đâu, không một ai hay biết.

+ Phan Văn Lân, lo việc biên pḥng, nghe tin Cảnh Thịnh đoạt sự nghiệp của Thái Đức, than dài một tiếng:

- Luân thường đă đứt, sự nghiệp không thể nào vững được lâu! Rồi giao công việc trong quân cho vị phó tướng, về An Thái thăm thầy. Thầy đă mất rồi, pḥ mă Trương Văn Đa cũng đă mất. Nơi xưa không c̣n ai là người cũ. Công bèn hỏi thăm phần mộ, ra thắp hương lạy thầy, ra đi... Như đám mây trôi trên ngàn thẳm.

+ Phạm Công Chánh trấn thủ Quảng Nam, Lê Sĩ Hoàng trấn thủ Quảng Nghĩa, nghe tin Bắc Thành thất thủ, liền mở kho phân phát hết quân lương quân trang cho binh sĩ, cho mọi người về quê quán làm ăn, c̣n ḿnh th́ một thương một ngựa ra đi. Phạm Công Chánh về ẩn núi Phương Phi tại Phù Cát, sau ra Cao Bằng. Lê Sĩ Hoàng về Quảng Nam, lên ẩn nơi Ngũ Hành Sơn.

+ Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc ở Quy Nhơn, cũng như Phạm Công Chánh, Lê Sĩ Hoàng ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, sau khi được tin Vua Cảnh Thịnh bị bắt, th́ giải tán quân đội. Ông Lộc về Kỳ Sơn, dùng Hầm Rùa làm nơi trú ẩn. Ông Huy lên Dương An nương náu, thỉnh thoảng về Phú Yên thăm quê hương, và ra Kỳ Sơn thăm ông Lộc.

Trừ Vơ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy cũng như Nguyễn Văn Lộc và hầu hết các tướng c̣n sống sót, không một ai nuôi chí phục thù.

Một hôm ông Lộc hỏi ông Huy:

- Cựu thần nhà Tây Sơn, văn cũng như vơ, c̣n khá nhiều tay tài tuấn, sao không hợp sức lại để lo việc phục hưng? Như thế chẳng ra là không tận trung với cựu chúa hay sao ?

Ông Huy đáp:

- Những anh hùng nghĩa sĩ, ra giúp nhà Tây Sơn từ ngày mới khởi nghĩa cho đến nay, không ai phụ nhà Tây Sơn. Tất cả đều lo tṛn bổn phận cho đến giờ chót, như thế là tận trung. Nay nhà Tây Sơn đă không c̣n nữa th́ chúng ta c̣n trung với ai? Bầy tôi của Vua Lê Chiêu Thống bo bo giữ ḷng trung với cố chủ, nổi dậy đánh ở miền Bắc, hết lớp này đến lớp khác, đă chẳng lợi ǵ cho nhà Lê mà c̣n làm khổ dân hại nước. Phải nghĩ đến dân đến nước trước. Không có thể làm lợi cho dân cho nước th́ nằm yên chớ không nên gây thêm rối. Trung với một người, một nhà mà làm hại cho dân cho nước, th́ trung ấy, kẻ chân chính không nên nghĩ đến. Trung ấy không phải là trung.

Nguyễn Phúc Ánh ḍ biết tung tích của một số cựu tướng nhà Tây Sơn, t́m đủ cách để tận diệt. Nhưng núi non đă hiểm trở lại thêm người địa phương che chở, nên mọi người đều sống yên. Không bắt giết được, Nguyễn Phúc Ánh bèn dụ hàng, nhưng không người nào đáp ứng.

Báo quốc nhất thân đô thị đảm

Giao t́nh thiên tải chỉ luân tâm[100]

Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Đức, Vua Quang Trung, chém giết ḍng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, c̣n truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đă theo nhà Tây Sơn và đă chết trước khi non sông đổi chủ.

Quan quân nhà Nguyễn chú ư nhất là những mồ mả ở trong vùng đất Tây Sơn.

Trước hết là mộ ông Nguyễn Phi Phúc.

Truyền rằng mộ nằm trên dăy Hoành Sơn, thôn Trinh Tường.

T́m khắp nơi, th́ thấy sát chân núi phía đông, khoảng giữa, nổi lên một trảng đất lum lum, trong khoảng này dáng núi hơi cong cong. Đứng phía trước trông vào th́ phảng phất giống một chiếc ghế bành vĩ đại, mà lưng và tay tựa vào núi, c̣n mặt ghế là trảng đất. Trên trảng đất, nằm song song hai tảng đá xanh to lớn, h́nh chữ nhật. Người ta bảo đó là mộ của vợ chồng Nguyễn Phi Phúc. Bọn đào mồ mừng rỡ, ra sức cạy hai tảng đá lên. Hài cốt không thấy đâu mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đă lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong đương cháy[101].

Ai cũng biết bốn chum dầu đó là của nhà Tây Sơn chôn, song mục đích để làm ǵ, thật không ai biết. Biết rằng không phải mộ ông Phúc, quân nhà Nguyễn t́m khắp nơi, song không thấy dấu tích.

Những mả vôi to lớn ở trong vùng B́nh Khê đều bị quật.

Có ba khóm lớn nhất, một ở bờ sông Côn phía Trinh Tường, một ở thôn Phú Lạc, một ở thôn Kiên Mỹ, trên bờ sông Côn. Xương cốt đều ném xuống sông!

Những ngôi mộ này là mộ của các vị đại thần pḥ Vua Thái Đức.

Ở thôn Trường Định cũng có ba ngôi mộ rộng lớn và rất kiên cố của đại thần nhà Tây Sơn. Nhưng khi nghe tin Quy Nhơn bị Phúc Ánh chiếm th́ gia đ́nh người khuất liền đục bỏ bia cũ, thay vào tấm bia mới mang tên đàn bà. Nhờ vậy mà khỏi bị quật[102].

Nhà Tây Sơn dẫy cỏ không sạch nên nhà Nguyễn mọc trở lại. Để nhà Tây Sơn khỏi mọc lại, Nguyễn Phúc Ánh cho dẫy tận gốc. Nhưng than ôi, đến cả gốc cỏ đă khô gần mục mà cũng bị dẫy! Quả là độc thủ!

Để tránh nạn tru di, con cháu những người có liên hệ ít nhiều đến nhà Tây Sơn, phần nhiều đều phải thay tên đổi họ, đi ẩn náu ngoài xứ lạ nơi xa.

Chính sách dẫy cỏ thật sạch gốc của Gia Long làm lụy chẳng những người mà c̣n đến cả vật, nhất là vùng Tây Sơn.

Sách vở, giấy tờ đều bị tiêu hủy. Điển h́nh là những tập gia phả của họ Vơ ở Phú Phong, họ Bùi ở Xuân Ḥa, họ Đặng ở Dơng Ḥa, họ Trần ở Trường Định... Cho đến những bộ sử, những tập thơ văn... sản xuất đời Tây Sơn cũng cấm không được lưu hành, tàng trữ, như bộ Trần Triều Thông Sử  Cương Mục của Lê Văn Nhân ở An Nhơn, phụng chiếu soạn năm Quang Trung thứ tư (1791), bộ Lê Triều Thực Lực do Vơ Xuân Hoài tổng tu dưới triều Cảnh Thịnh... Những tập thơ Hán có Nôm có của nhóm Tứ Tài Tử  ở Tuy Viễn và Song Hoài Thi Xă ở Bồng Sơn, tập thơ ca văn tế bằng chữ Nôm của La Xuân Kiều ở Phù Cát v.v...

Những môn vơ thời Tây Sơn thường dùng, một số bị cấm. Thời Tây Sơn vơ nghệ rất thịnh. Có bốn môn nổi tiếng là Côn, Quyền, Kiếm, Cổ. Nhưng khi đem áp dụng vào việc binh th́ quyền thay thế bằng kỳ.

Côn, quyền, kiếm thời nào cũng có nơi nào cũng có. Chỉ có môn kỳ và cổ e chỉ B́nh Định mới có và chỉ đời Tây Sơn mới dùng.

Kỳ là cờ - lá cờ vuông mỗi bề rộng chừng hai sải dệt bằng thao càn rất dày rất chắc, trừ phía kết vào cán cờ, ba phía kia đều móc sắt thay tua. Lá cờ vừa dùng để chỉ huy vừa dùng để giết giặc.

Phải là người có sức mạnh và có vơ giỏi, mới sử dụng được.

Cổ là trống. Trống lớn như trống chầu. Khi tập luyện th́ đứng trên hai khối gỗ tṛn lớn gấp đôi quả bưởi. Đôi chân phải điều khiển hai khối tṛn đó một cách lanh lẹ. C̣n cùi chỏ, bàn tay, vai, đầu đều phải dùng để đánh và đỡ mấy cái trống, theo từng bài luyện vơ. Khi th́ dùng hai trống, khi th́ dùng bốn, khi th́ dùng tám, khi th́ dùng mười ai, tùy tŕnh độ và sức vóc của vơ sĩ. Trống treo ở trước mặt. Biểu diễn một lần từ một đến sáu người. Mỗi người hai trống. Không phải người nào đứng chỗ nấy, mà luôn luôn đổi chỗ lẫn nhau.

Khi ra trận th́ dùng hai trống, đặt trên xe đẩy, và dùng dùi trống thay tay. Dùi trống không phải chỉ dùng để đánh trống thúc quân mà c̣n dùng làm khí giới giết địch.

Gia Long cấm kỳ, kiếm, cổ.

Kỳ không bị cấm cũng không ai dùng nổi và cũng không ai học làm ǵ trong lúc không chiến tranh.

Kiếm chẳng những cấm dạy cấm học, mà trong nhà có kiếm cũng bị tội.

Cấm kiếm lẽ tất nhiên cũng cấm luôn đao.

Cho nên nghề kiếm và đao ở B́nh Định bị mất hẳn.

C̣n cổ th́ cũng thất truyền. Và môn vơ biến thành môn nhạc. Vơ th́ đánh trống chầu và đánh trống treo. Nhạc th́ đánh trống chiến và trống để đứng. Nhưng những bài luyện vơ vẫn được đem dùng vào việc đánh nhạc.

Nói tóm lại là tất cả những tinh ba của đất nước sản xuất thời Tây Sơn, đều bị Gia Long t́m đủ cách để tận diệt. Tận diệt để không c̣n ǵ làm cho người đời nhớ đến Tây Sơn.

Tên vùng đất phát tích ra nhà Tây Sơn cũng bị đổi ra An Tây.

Diệt tận gốc, nhổ sạch rễ!

Nhưng chỉ bên ngoài thôi.

Ḷng người Việt Nam yêu nước, nhất là người B́nh Định, đâu có quên nhà Tây Sơn.

 


 L̉NG DÂN ĐỐI VỚI NHÀ TÂY SƠN

 

Danh người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, người đă hai phen thảo quân xâm lược do Duy Kỳ thỉnh về, Nguyễn Phúc Ánh rước tới, cứu nhân dân Việt Nam thoát ṿng nô lệ của ngoại quốc, cùng mặt trăng mặt trời rạng rỡ trên sông núi Việt Nam.

Và nghĩ rằng nếu không có Vua Thái Đức mở đường, Đông Định Vương giúp sức th́ chắc ǵ đă có những chiến công oanh liệt của Vua Quang Trung, nên người B́nh Định, nhất là người B́nh Khê, ghi nhớ cả ba người anh hùng áo vải

Bởi vậy, sau khi ngôi từ đường của nhà Tây Sơn ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn phá hủy th́ ngôi đ́nh làng thay thế vào.

Đ́nh làng dựng lên để thờ thần. Nhưng nhân dân địa phương đem sắc thần để một ngôi miếu khác, c̣n đ́nh th́ bí mật thờ ba Vua Tây Sơn. Xuân kỳ thu tế, nhưng chỉ vái thầm chớ không đọc văn.

Ngoài xuân kỳ thu tế, c̣n ngày kỵ của ba vua vào tháng 11 âm lịch. Để che mắt vua quan nhà Nguyễn, ngày kỵ gọi trại là ngày cúng cơm mới.

Lâu ngày chánh quyền địa phương biết được, nhưng một mặt sợ thần linh bẻ họng, một mặt sợ thất nhân tâm, nên bóp bụng làm lơ.

Ḷng kính yêu nhớ tiếc ba Vua Tây Sơn thấm thía và bền bỉ, chẳng những ở trên tầng lớp sĩ phu mà cả dưới mọi tầng lớp nhân dân. Bất kỳ trẻ già trai gái, hễ đi qua đ́nh Kiên Mỹ, là lấy nón cúi đầu. Khách đi ngựa đi vơng đều phải xuống ngựa xuống vơng.

Và ca dao địa phương có câu:

Đá Hàng cữ nước không sâu
Hàng Thuyền lai láng mặc dầu cá đua.
Có đua sông trước th́ đua
Sông sau mắc miễu thờ Vua xin đừng[103].

Ḷng kính yêu nhớ tiếc nhà Tây Sơn chẳng những ở thời trước, mà cho đến năm 1945 vẫn nồng nàn như cũ. Xuân kỳ thu tế, ngày kỵ cúng cơm mới trong năm 1945 vẫn cử hành theo thường lệ. Đến năm 1947 có lệnh tiêu thổ kháng chiến, đ́nh miễu bị phá hủy, việc cúng tế mới thôi.

Năm 1960, nhân dân B́nh Khê chung tiền chung sức lập lại đền thờ Tây Sơn nơi đ́nh cũ.

Đền không lấy ǵ làm rộng lớn, song trang nghiêm. Đối với sự nghiệp anh hùng thật không xứng. Nhưng đối với hoàn cảnh thiếu thốn của nhân dân địa phương lúc bấy giờ, th́ chừng ấy cũng là một cố gắng vượt mức.

Đền có ba gian.

Gian giữa thờ vua Quang Trung.

Hai bên thờ vua Thái Đức và Đông Định Vương.

Trước sân có tượng bán thân của Vua Quang Trung và có bi đ́nh khắc bài kư tán tụng công đức nhà vua:

Đức Vũ Hoàng,

Họ Nguyễn, húy Huệ.

Ứng hùng năm Quư Dậu (1753),

Thừa long năm Nhâm Tư (1792)

Thọ 40 tuổi, ở ngôi 5 năm.

Niên hiệu Quang Trung.

Miếu hiệu Thái Tổ Vũ Hoàng Đế.

Tổ tiên vốn người Châu Hoan, dời vào ấp Tây Sơn được bốn đời. Trước ở Phú Lạc, sau xuống Kiên Thành buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ.

Vũ Hoàng có ba anh em.

Anh là Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, thiệp thế đa mưu.

Em là Đông Định Vương Nguyễn Lữ, thành tín nhân hậu.

C̣n Vũ Hoàng: Sức mạnh cử đảnh, tài dụng binh như thần, lại sùng thượng kinh văn, quư trọng đạo lư. Kẻ cao tài đại đức được tôn kính vào bậc thầy. Văn vơ dưới cờ đều những trang khai quốc tuấn kiệt.

Thân bố y, tay trường kiếm, Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng họ Lưu.

Quả là cái thế anh hùng vậy.

Năm Tân Măo (1771), thống tâm v́ cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay chân, ba anh em Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa binh, chịu gian nan mà dấy nghiệp. Lấy thành Quy Nhơn làm căn cứ. Rồi đánh vào Nam, tiến ra Bắc. Ḷng xa gần đều theo. Trăm trận trăm thắng. Thanh thế nhà Tây Sơn lẫy lừng.

Riêng Vũ Hoàng. Bốn lần bạt thành Gia Định, ba lần vào thành Thăng Long. Thắng chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Vơ Thang.

Lại hai phen thảo quân xâm lược:

Năm Giáp Th́n (1784) quét sạch 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong rước tới.

Năm Kỷ Dậu (1789), đánh tan 20 vạn hùng binh Măn Thanh do Duy Kỳ khất lân lĩnh về.

Nhờ vậy mà dân tộc thoát ách vong nô.

Nhờ vậy mà tổ quốc vững nền độc lập.

Công thật cao như Trường Sơn.

Ân thật sâu như Nam Hải.

Non sông đăng định, Vũ Hoàng chăm lo việc trị b́nh.

Đắp quốc cơ theo tôn chỉ phú cường. Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm túc. Dùng chữ Nôm làm quốc gia văn tự. Lập Sùng Chính viện để đào tạo nhân tài.

Và cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa xong, Vũ Hoàng luyện tướng nuôi binh, quyết khôi phục phần đất Lưỡng Quảng.

Nhưng than ôi!

Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá,

Chín tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa.

Khiến nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong!

Khiến nước Việt Nam lỡ mất cơ cường thịnh!

Tuy nhiên,

Danh Vũ Hoàng vẫn cùng mặt trăng mặt trời mà sáng. Ân Vũ Hoàng vẫn cùng núi Trưng núi Tượng mà cao. Và nhân dân Việt Nam vẫn ca rằng:

Non Tây áo vải cờ đào

Giúp dân dựng nước xiết bao công tŕnh.

Tiết Trọng Xuân năm Tân Sửu (1961)

Nhân dân B́nh Khê cẩn kư.

 Sau khi đền lạc thành, cứ mỗi năm, đến ngày lễ Đống Đa, nhân dân toàn tỉnh B́nh Định hợp nhau tại đền làm lễ kỷ niệm. Lễ kỷ niệm cử hành theo cổ lễ, nhưng những cuộc vui th́ có mới có xưa. Người đến dự lễ vô cùng đông đúc. Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Và riêng nhân dân B́nh Khê, rằm tháng 11 âm lịch, lại tổ chức ngày kỵ ba Vua theo thường lệ.

Trong buổi lễ Đống Đa và ngày kỵ đều có đọc văn tế và cử nhạc theo cổ lễ.

Hai bài văn tế đầu tiên:

Văn Tế Đống Đa:

“ Than ôi!

Ḍng Côn thủy mây lồng thức gấm, măn vui t́nh mai liễu độ xuân;

Đỉnh Trường Sơn gió cuộn sóng tùng, chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.

 Nhớ tôn linh xưa:

Khí cốt lăng tằng,

Anh tư khôi đặc.

Sức điều binh khiển tướng, Hạng Vơ Lưu Bang Ḷng trọng sĩ tôn hiền, Văn Vương Huyền Đức, T́nh đất nước giận cơn chia xẻ, lưỡi gươm thần dẹp loạn cứu dân; Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn, thân áo vải giúp anh dựng nước.

Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường vân,
Thuận Hóa trời cao, chói chang vầng bạch nhật. Xiêm phê áp phủ, trên chín trùng toan mối trị b́nh, Vuốt dũa nanh mài, ngoài muôn dặm rắp tâm xâm lược. Cơng rắn tội ḱa ai?

Bắt hùm tay sẵn chước.

Tế Trời Đất đàn Giao cao vút vút, bóng tinh kỳ sáng dọi buổi đăng quang.

Nh́n non sông khí giận ngất từng mây, tiếng hiệu lệnh sấm vang giờ xuất phát. Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh!

Chiến tượng hai trăm tinh trường trận mạc.

Ḷng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn nước non ca khúc khải hoàn sau.

Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang, cùng tướng sĩ chung vui Nguyên Đán trước.

Cạn lời ủy lạo, trống giục cờ giong:

Dốc dạ truy tùy, non băng biển vượt.
Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh;
Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hăm giặc.
Đánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng:
Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá nát
.

Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt lương rừng lửa đỏ, khiến ba quân liều chết chớ lui;

 Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn cổ thước khăn vàng, quyết một trận chẳng hơn th́ thác.

Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ, thuốc súng chôn quanh thành, chông sắt cắm khắp lũy, thêm bốn bề đạn rạc rào mưa;

Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván dày cột thành cốt, rơm ướt phủ làm b́, ḥ một rập sức cuồn cuộn thác, Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kịp hạ, sông máu láng lai; Thúc chân voi, Khương Thượng liều thân, núi thây chồng chất. Nghi Đống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ Đống Đa! Sĩ Nghị may t́m được lối ra, hớt hải thoát thân mạn Bắc. Ngoài ải sói gió tan mùi sát khí, niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên; Vào thành Long cờ rợp bóng vinh quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược. Mười ngày hẹn trước, trời đất chứng lời vàng;

Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc.
Lửa tạnh hề biên cương
Nền cao hề xă tắc,
Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy sấm,
Triều Măn Thanh bóp bụng sống chung trời;
Chí đấu tranh gan sắt vững vàng non,
Niềm Lưỡng Quảng quyết tâm đ̣i lại đất,
Nhưng than ôi!
Tấm gan rèn đá, trời chửa vá xong;
Đỉnh Ngự ch́m mây, rồng sao vội khuất!
Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi ḍn thoi phút để mối tơ chùng!
Nghiệp đế vương đuối sức giữ ǵn,
Thuyền thuận bến trúc theo cơn gió lật!
Trời Phú Xuân sương gió lạnh lùng!
Biển Thị Nại bèo mây tản mác!

Bút chép sử múa men tay đắc thế: trang oanh liệt son nḥa! Nền ghi ân khuất lấp bóng cô thôn: gương anh hùng thủy nhạt!

Nối chí cả người sau toan lấp hận,

Lao công Tinh Vệ, ngậm ngùi thương.

Ǵn dấu linh chốn cũ khó nguôi t́nh,

Lắng giọng đề quyên tê tái ruột,

Cũng may thay!

Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,

Ách chuyên chế giống ṇi nay đă thoát,

Trăng hào kiệt bấy lâu u ám, ngọn đông phong mát mẻ vén màn sương;

Vườn anh hoa đua nở tự do, bút thanh nghị ngọt ngào rơi giọt móc

Chúng tôi nay:

 Chung gội ơn xuân.

Kính dâng lễ bạc,

Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ màng,

Nội thắm ngàn xa, hương tinh thành bát ngát.

Ḍng lịch sử mở ra ôn lại, dịu dàng chữ gấm dệt lời hoa. Tranh vĩ nhân trải rộng xem chung, lộng lẫy chỉ vàng treo bóng ác.

Hầm hô con cá nhảy, trong bóng mây thấp thoáng bóng rồng

Trưng Lĩnh cánh diều bay, theo tiếng gió lẫy lừng tiếng nhạc.

Linh thiêng xin chứng.

Bài văn nhân dân B́nh Khê tế Tây Sơn tam kiệt ngày rằm tháng 11.

“Duy!
Nước bị qua phân,

Nhà sanh tam kiệt,

Non Tây áo vải, phất nghĩa kỳ dẹp loạn an dân.

Đất Việt khí thiêng, tung bửu kiếm diệt thù cứu nước.

Nền đế nghiệp xây cao trời một cơi,

Bước tiền đồ hoa cỏ đón mừng xuân;

Tiếng anh hùng vang dội sấm mười phương,

Miền biên tái sài lang im lặng dấu.

Ví thử bóng rồng không vội khuất

Th́ chi đuôi ngạc dễ mà tung.

Biển nên cồn thời vận khéo xui, tay bé không xoay trời đất lại;

Đất vá khuyết cơ duyên chưa gặp, dấu linh c̣n tạc nước non đây.

Nhân dân B́nh Khê chúng tôi:

Lắng hơi quyên trằn trọc giấc canh chầy.

Mơ bóng hạc thẫn thờ đêm nguyệt rạng.

Đền cũ dâng ḷng hương một nén;

Bia xanh tạc đức ngọc muôn hàng.

Cá nhớ nguồn lên xuống nước Côn giang, dạ nhắc dạ mồi thơm chẳng tưởng;

Chim mến cội đi về cây Tượng Lĩnh, đàn gọi đàn g̣ thấp chớ nương.

Một ḷng nguyện giữ sắt son,

Muôn gội dám quên mưa móc.

 Nay:

Niệm kỳ húy nhật, lá vàng điểm tiết hàn đông;

Chứng tấc thành tâm, lễ bạc dâng trời dị lộ.

Trăm thước trầm hương cuồn cuộn gió,

Đôi hàng bạch lạp ngập ngừng châu.

Nâng kim bôi rượu đủ ba tuần, phảng phất long nhan dường thấy đó;

Trước linh án lễ rồi bốn lạy, mơ màng loan giá trở về đây. Gương ngh́n thu lai láng ánh quang huy,

Trong khuất tịch cũng không c̣n hắc ám;

Đất ba cơi sáng soi vầng bạch nhật,

 Dẫu vô cùng vẫn được hưởng vinh quang.

Lời cầu xin mong thấu cơi u huyền,

Ḷng thành kính ngửa nhờ ơn chiếu giám.

Phục duy,

Thượng hưởng “

Từ khi đền Tây Sơn lập lại, năm năm đều tế lễ. Lễ Đống Đa thay thế lễ Xuân Thu. Lễ húy nhật vẫn giữ y như cũ. Và tuy đời đổi mới, lễ vẫn cử hành theo lề lối xưa. Nhưng lần lần, người đọc văn tế có tài qua đời hết, và cứ đọc đi đọc lại măi một bài nghe cũng chán, nên cứ vài ba năm, thay văn tế một lần, không thiếu những điểm quan trọng, nhưng gọn gàng dễ đọc.

Có hai bài thường được dùng đến:

Văn Tế lễ Đống Đa:

Non Tây áo vải,
Trời Việt khí thiêng;
Ngọn cờ đào gió thuận ḷng dân,
Mối ly loạn dẹp yên ḍng Trịnh Nguyễn;
Thanh kiếm báu chớp ngời thế trận,
Đường xâm lăng quét sạch giặc Xiêm, Hoa.
Đài vinh quang rạng rỡ giống ṇi,
Nền độc lập vững bền đất nước.
Mây áng Trường Sơn rồng dẫu khuất,
Trăng lồng Quế Hải gấm c̣n giăng.

Đền ghi ân ngào ngạt nén tâm hương, đá tạo ngh́n thu vững núi;

Bút chép sử ung dung ng̣i chính luận, son pha từng nét đơm bồng.

Nay chúng tôi:

Đón tiết dương xuân,
Nhớ ngày kỷ niệm.
Ngửa dâng lễ bạc,
Cúi trải niềm son.
Mơ màng trận thắng Đống Đa, hồn chiến sĩ thơm lây chiều gió mới;
Lai láng ḍng trong Côn Thủy, gương anh hùng sáng dọi ánh trăng xưa.
Nén tinh thành mong thấu cơi u linh,
Cơ huyền diệu sớm xoay thời thịnh thái.
Giống Hồng Lạc đơm hoa kết trái, sương nắng chung, mưa móc cùng chung.
T́nh Bắc Nam líp thịt liền xương, dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.
Linh thiêng xin chứng.”


Bài Văn tế ngày kỵ 15 tháng 11:
Tây lĩnh tài cao,
Côn giang đức cả.
Giận Trịnh, Nguyễn cắt t́nh đất nước,
Thêm Phúc Loan đọa kiếp giống ḍng.
Tuốt gươm thần phạt ngụy điếu dân, danh Tam Kiệt nước
non lừng lẫy sấm.
Thu mối nước b́nh Nam định Bắc, công ngh́n thu sử sách rơ ràng son
.

 Nay chúng tôi:

Đối cảnh đông thiên.
Niệm kỳ húy nhật,
Ngọn gió hương đưa hồn Tổ Quốc,
Đầu non thông vút khí anh hùng.
Rượu ba tuần rót chén tinh thành.
Lễ bốn lạy dâng trời dị lộ,

Phảng phất đài mây điện ráng, ngưỡng vọng giáng lâm,
Chít chiu con lạc cháu Hồng, huệ diên phước tải
Thượng hưởng “

Những bài văn kư đă nói lên được trung thực ḷng người yêu nước đối với nhà Tây Sơn.

Nhưng trong đó ḷng chỉ dám biểu lộ sau khi nhà Nguyễn đă bị nhân dân đứng lên lật đổ.

Dám biểu lộ trong lúc ách cường quyền c̣n đè nặng trên cổ nhân dân, th́ long kính yêu nhớ tiếc mới thật là mạnh liệt.

Nguyễn Bá Huân viết: Cân Quắc anh hùng truyện, Tây Sơn văn thần liệt truyện, Nguyễn Trọng Tŕ viết: Tây Sơn danh tướng chinh Nam truyện, Tây Sơn lương tướng ngoại truyện v.v...

Các tác phẩm trên ghi chép sự tích, hành trạng của các anh hùng hào kiệt văn vơ pḥ tá nhà Tây Sơn. Sách viết thời Tự Đức. Dụng ư đề cao nhà Tây Sơn.

Không phải là danh sơn sự nghiệp mà sách được phổ biến trong giới trí thức đương thời, trong đó có một đại thần nhà Nguyễn là Đào Tấn ở Vĩnh Thạnh.

Điều đó chứng minh rằng ḷng người dân yêu nước đối với nhà Tây Sơn dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.

Đến năm 1975, Bắc Nam thống nhất, đền Tây Sơn ngót 15 năm thuộc quyền quản trị của nhân dân B́nh Khê, giao lại cho Nhà nước cách mạng. Đền được mở rộng thêm, và mỗi năm lễ Đống Đa vẫn được tổ chức trọng thể.

 

Thay Lời Kết

Nhà Tây Sơn

Khởi nghĩa năm Tân Măo (1771).

Lấy thành Quy Nhơn làm căn cứ chiến đấu năm Quư Tỵ (1773).

Lên làm vua:

+ Thái Đức từ Mậu Tuất đến Quư Sửu (1778-1793)

+ Quang Trung từ Mậu Thân đến Nhâm Tư (1788-1792)

+ Cảnh Thịnh từ Quư Sửu đến Nhâm Tuất (1793-1802)

Trong 24 năm (1778-1802), nhà Tây Sơn phải đánh Nam dẹp Bắc, không mấy lúc rảnh việc chiến tranh, nên chưa làm được việc lớn lao về mặt kinh tế, văn hóa, chính trị.

Sau khi bị diệt vong, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn đời này sang đời khác gần 150 năm (1802-1945) ra sức phá hủy không c̣n một dấu tích ǵ trên lănh thổ Việt Nam!

Đi ngang qua di chỉ nhà Tây Sơn, một nhân sĩ B́nh Định là Nguyễn Trọng Tŕ có bài thơ Cảm Hoài:

Loạn thế anh hùng sản xuất đa
Bắc Nam dược mă dự huy qua
Thập niên huyết chiến thành hà sự
Không thính ngư tiều túy tửu ca.

Bài thơ viết vào khoảng Đồng Khánh, Thành Thái (1885-1907) triều nhà Nguyễn, cho nên đậm nét bi quan. Chớ sao lại không nên việc ǵ. Bởi việc ǵ đó há phải là những cái tồn tại trên mặt đất, mà chính những cái c̣n măi măi trong ḷng người Việt Nam, trong văn chương Việt Nam.

Ngót 150 năm, nhà Nguyễn cố làm cho người người quên nhà Tây Sơn. Những người yêu nước vẫn luôn nhớ đến nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn t́m ṭi trong nơi khuất tịch những tài liệu c̣n dấu cất, để viết về nhà Tây Sơn.

Và tiếng Anh hùng áo vải, Anh hùng dân tộc măi c̣n vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc.

C̣n nhà Nguyễn đă làm được ǵ?

Có người bảo rằng đă thống nhất Bắc Nam.

Đó là quên rằng chính nhà Tây Sơn đă thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm trên tay Đông Định Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao phen bể nổi dâu ch́m nhà Nguyễn c̣n để lại tiếng Rước voi, cơng rắn.

Trăm năm bia đá thời ṃn

Ngh́n năm bia miệng măi c̣n trơ trơ.


 
 H
ẾT

PHỤ LỤC :

- Phận mệnh sách vở viết về nhà Tây Sơn. (Quách Tấn)

- Ảnh hưởng Tây Sơn trong gia đ́nh họ Quách. (Quách Tấn)

- Trích thư Nguyễn Hiến Lê về Nhà Tây Sơn.

- Cảm tưởng sau khi đọc Nhà Tây Sơn. (Nguyễn Đồng)

- Trích thư của Giản Chi về Nhà Tây Sơn.

- Trích thư của Quách Tạo về Nhà Tây Sơn.