Vua Thái Đức về già không có ư chí chiến
đấu, những văn quan vơ tướng có tài số qua đời, số về vườn, số theo Vua Quang
Trung, số c̣n lại tuổi cũng đă cao, tài cũng đă tận. Lớp người mới không có
người đủ tài kinh bang tế thế. V́ vậy thế nước vừa nổi lên cao lần lần xuống
thấp, để rồi tàn.
Đông Định Vương chỉ là một người có đức
độ, không có tài trị nước yên dân. Những nhân tài ở Quy Nhơn vào pḥ tá chết
lần, về hưu gần hết... Mà Gia Định lại đất rộng dân thưa, Vương không thể nào
nắm vững được vây cánh. Nhà Nguyễn nhân đó chiếm đóng nhiều nơi hiểm yếu và
thỉnh thoảng kéo binh đánh phá quân Tây Sơn. Trong xứ mất an ninh, ḷng người ly
tán. Nguyễn Phúc Ánh ở Xiêm La ḍ biết được t́nh h́nh, tháng 7 năm Đinh Mùi
(1787) đem cung quyến xuống thuyền về nước.
Nguyễn Phúc Ánh được vây cánh cũ kéo quân
ra giúp. Quân thế khá vững. Tướng Tây Sơn là Phạm Văn Tham chống không lại, bỏ
thành Sài Côn sang đóng ở Ba Thắc. Đông Định Vương chạy về Quy Nhơn chịu tội
cùng anh, rồi trở lên Kiên Mỹ thăm cố hương. Từ ấy biệt tích.
Nguyễn Phúc Ánh chiếm được Sài Côn tháng
8 năm Mậu Thân (1788).
Phạm Văn Tham cầm cự cùng quân Nguyễn
Phúc Ánh cho đến mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Đă đuối sức mà không thấy binh Quy
Nhơn vào cứu. Phạm đem binh xuống thuyền, định ra bể về Quy Nhơn. Nhưng bị quân
Nguyễn Phúc Ánh chận lại, phải trở lui Ba Thắc. Lâu ngày hết cả lương thực, Phạm
đầu hàng và bị giết.
Từ ấy Gia Định thuộc về Nguyễn Phúc Ánh.
Làm chủ đất Gia Định rồi, Nguyễn Phúc Ánh
một mặt lo sửa sang việc nước, một mặt nhờ Giám mục Bá Đa Lộc (Evêque dAdran)
đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin cầu viện để đánh Tây Sơn. Được quân Pháp do Giám
mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh rước về với hai chiếc tàu đồng do Chaigneau tục
gọi là Nguyễn Văn Thắng, chỉ huy, và tàu Phụng do Vannier, tục gọi là Nguyễn Văn
Chấn, điều khiển cùng một số tướng tá như Dayot (Dat-do), Olliver (Ô-ly-vi-ê),
De Forcant (Đờ Phot-xăng)... pḥ tá, quân lực của Nguyễn Phúc Ánh mỗi ngày mỗi
thêm sung thiệm hùng cường.
Sau một năm chuẩn bị, tháng tư năm Canh
Tuất (1790) Nguyễn Phúc Ánh sai Vơ Tánh, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Câu... đem
thủy lục quân ra đánh Tây Sơn ở B́nh Thuận. Binh Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn
chống cự kịch liệt, không tiến quân nổi, sau ba tháng giao tranh, phải rút về
Gia Định.
Nguyễn Phúc Ánh nhận thấy mỗi năm bắt đầu
từ tháng 3 có gió mùa thổi từ Nam ra Bắc, nên quyết định lợi dụng chiều gió để
tấn công Quy Nhơn. Cho nên người đương thời gọi những trận Nguyễn Phúc Ánh kéo
quân đánh Tây Sơn là giặc mùa.
Năm Nhâm Tư (1792 gió Nam vửa bắt đầu
thổi, Nguyễn Phúc Ánh liền sai Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành cùng hai
người Pháp là Nguyễn Văn Phấn (Dayot), Nguyễn Văn Chấn (Vannier) đem chiến
thuyền ra đánh Quy Nhơn. Quân nhà Nguyễn kéo vào cửa biển Thị Nại.
Cửa biển Thị Nại tức là cửa biển Quy
Nhơn. Phía đông có dăy núi Phương Mai, phía tây có dăy núi Nhạn Châu tục gọi là
Gành Ráng, làm cánh che. Từ thời Chiêm Thành đến đời Tây Sơn, cửa Thị Nại luôn
luôn có quân pḥng ngự. Vua Thái Đức lại cho xây pháo đài ở hai dăy núi, và đặt
đại bác ở trên núi bắn xuống mỗi khi bị giặc tấn công.
Nhưng lúc bấy giờ gió nam thổi mạnh, Binh
Nguyễn dùng hỏa công đốt phá thủy trại Tây Sơn. Bị đánh th́nh ĺnh lại có sức
gió lửa quá mạnh, binh Tây Sơn không chống nổi phải bỏ Thị Nại chạy về Quy Nhơn.
Quân Nguyễn đổ bộ, nhưng liền bị quân Tây Sơn từ Quy Nhơn kéo xuống đánh, phải
rút lui.
Ở Phú Xuân, Vua Quang Trung (lúc bấy giờ
c̣n sống) được tin quân Nguyễn kéo đánh Quy Nhơn, nổi giận liền chuẩn bị đại
binh vào tận diệt nhà Nguyễn. Trần Quang Diệu đi đường Lào xuống đông Miên có
tướng Miên O Nha Long hưởng ứng, c̣n nhà vua th́ đem thủy binh vào cửa Cần Giờ.
Trên đánh xuống, dưới đánh lên, mặt núi mặt biển đều bị bao vây. Nguyễn Phúc Ánh
không c̣n lối thoát. Một mặt Vua Quang Trung tin cho Vua Thái Đức biết dự định
của ḿnh để hai bên cùng tiến vào bao vây tiêu diệt toàn bộ lực lượng Nguyễn
Phúc Ánh, một mặt gởi cho nhân dân Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn bài hịch kêu
gọi mọi người hăng hái tham gia cuộc tấn công sắp tới.
Bài hịch đại khái nói rằng:
Quân Tây Sơn đă lập được không biết bao
nhiêu chiến công oanh liệt. Diệt quân Xiêm La, thắng quân Măn Thanh. Bao phen
đánh quân nhà Nguyễn không c̣n mảnh giáp phải chạy ra cầu viện nước ngoài. Nay
Nguyễn Phúc Ánh rước quân Pháp về phá rối nước nhà, vâng mệnh đức Hoàng Huynh,
ta chuẩn bị một đạo thủy bộ hùng binh, sẽ thân hành kéo vào Nam diệt giặc. Giặc
nhà Nguyễn chỉ là bè củi mục. Quân Tây Sơn sẽ thu hồi đất Gia Định trong nháy
mắt.
Lại khuyên nhân dân không nên sợ bọn
người Tây Dương. Chúng chỉ là nhứng xác chết. Những chiếc tàu đồng, những khinh
khí cầu của chúng không có ǵ đáng sợ...
Tin Vua Quang Trung sẽ tấn công vào Gia
Định làm cho nhân dân miền Nam phấn khởi, làm cho Vua tôi nhà Nguyễn và bọn Pháp
vô cùng lo sợ. Nhưng cuộc hành binh không thực hiện được, v́ đương mùa gió nam,
thuyền đi vào bất lợi, nhất là tại khúc đường đi ngang qua bán đảo Triều Châu
tại Quy Nhơn. Nơi đây tại Eo Vược gió thổi mạnh gấp ba gấp bốn gió ngoài khơi,
gọi là nam ḷ. Ghe thuyền gặp lúc nam ḷ thổi th́ khó tránh khỏi tai nạn. Cho
nên khách hàng hải có câu:
Cha chết không lo
Hỏi thăm nam ḷ thổi dịu hay săng
Giáo sĩ Le Labouse gởi thư cho bạn, có
đoạn rằng:
Tháng 2 năm 1792, chúng tôi phải rời bỏ
con chiên để tránh quân địch Tây Sơn. Họ sẽ kéo đến vài chục ngàn người, do
đường Lào tiến vào Cao Miên. Người Cao Miên cũng dự tính theo họ nữa. Nguyễn Huệ
sẽ đem hải quân ngăn chặn các cửa biển Nam Kỳ. Nếu dự định này được thi hành th́
nhà vua và chúng tôi chỉ c̣n chờ chết. Nhưng nhờ ơn trên, dự định này không thấy
thi hành. Chắc quân Tây Sơn e ngại các chiến hạm của người Âu Châu đóng đầy sông
Sài G̣n do việc buôn bán....
Vua Quang Trung đợi sang thu, gió đông
bắc thổi sẽ xuất chinh nhưng rủi bị cảm rồi băng. Vua Quang Trung băng, các nhà
truyền giáo Kitô mừng. Nguyễn Phúc Ánh càng mừng.
Tháng 3 năm Quư Sửu. Nguyễn Phúc Ánh để
Hoàng tử Cảnh ở lại giữ Gia Định với Giám mục Bá Đa Lộc, sai Tôn Thất Hội cùng
Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đem bộ binh ra đánh B́nh Thuận, c̣n ḿnh
cùng Vơ Tánh và Nguyễn Văn Trương đem thủy binh đi đánh mặt bể.
Binh của Tôn Thất Hội đến B́nh Thuận bị
binh của Nguyễn Quang Huy chận đánh, không tiến nổi.
Thủy binh của Nguyễn Phúc Ánh vào cửa bể
Nha Trang, đi ngược ḍng sông Cù, kéo lên đánh Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận
đánh tại bến Trường Cá làng Phương Sài. Hai bên kịch chiến. Thuyền ch́m người
chết đầy cả khúc sông. Cuối cùng quân Tây Sơn không chịu nổi sức súng của Pháp
phải tan ră. Nguyễn Phúc Ánh kéo lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn bỏ thành về Quy
Nhơn.
Thừa thắng Nguyễn Phúc Ánh đánh thẳng ra
Phú Yên. Thành Phú Yên cũng bị thất thủ sau mấy ngày chiến đấu anh dũng.
Diên Khánh bị thất thủ, quân B́nh Thuận
mất hậu thuẫn, Nguyễn Quang Huy bị quân Tôn Thất Hội đánh thua, kéo quân chạy về
Quy Nhơn chận quân Nguyễn.
Tôn Thất Hội chiếm được B́nh Thuận th́
liền được thư của Nguyễn Phúc Ánh bảo tiến binh ra hội với Thủy Sư ở Phú Yên để
hai mặt cùng ra đánh Quy Nhơn.
Thủy binh Nguyễn Phúc Ánh vào cửa Thị
Nại. Vua Thái Đức sai Thái tử Nguyễn Bảo đem binh chống cự. Nguyễn Phúc Ánh mật
sai Vơ Tánh đem binh lẻn đi hội với toán quân Tôn Thất Hội. Nguyễn Văn Thành
đánh tập hậu. Nguyễn Bảo bị đánh hai mặt, không chống nổi phải rút quân về thành
Quy Nhơn. Quân Nguyễn Phúc Ánh kéo lên đánh thành Quy Nhơn.
Liệu thế không chống cự nổi, Vua Thái Đức
sai sứ ra Phú Xuân cầu viện.
Vua Cảnh Thịnh sai Thái Úy Phạm Công
Hưng, Hộ Giá Nguyễn Văn Huấn, Đại Tư Lộ Lê Trung và Đại Tư Mă Ngô Văn Sở đem
17.000 bộ binh và 80 thớt voi đi đường bộ, lại sai Đại Thống lĩnh Đặng Văn Chân
đem 30 chiến thuyền đi đường bể, cả hai đạo vào cứu Quy Nhơn.
Nguyễn Phúc Ánh nhận thấy viện binh hùng
hậu, không thể chống nổi, liền rút đại binh về Diên Khánh.
Quân nhà Nguyễn rút ra khỏi Quy Nhơn, Vua
Thái Đức mở cổng thành đón binh Phú Xuân. Phạm Công Hưng vào thành truyền giải
giáp quân Thái Đức và sai quân chiếm giữ các kho tàng, Ngô Văn Sở can không
được.
Vua Thái Đức uất ức thổ huyết mà chết.
Vua Thái Đức ở ngôi được 16 năm (1778-1793) thọ 52 tuổi. Ngự cốt được đưa về an
táng trong vùng núi Tây Sơn .
Vua Cảnh Thịnh phong cho Thái tử Nguyễn
Bảo là Hiến Công, cho ăn lộc một huyện, gọi là Tiểu Triều, dinh đóng tại lỵ sở
Tuy Viễn, bà chánh cung họ Trần đem hai người con nhỏ là Văn Đức và Văn Lương về
sống nơi quê hương Kiên Mỹ để được gần gũi lăng Vua, cho tiện việc hương khói.
Các đại thần của Vua Thái Đức, nhờ Ngô
Văn Sở can thiệp, khỏi bị hại. Phần nhiều lấy cớ tuổi già sức yếu xin về sống
cùng vườn ruộng, một số ở lại làm việc, v́ bảo rằng Vua Thái Đức hay Vua Cảnh
Thịnh cũng đều là người của đất Tây Sơn.
Vua Cảnh Thịnh để Lê Trung và Nguyễn Văn
Huấn ở lại trấn thủ Quy Nhơn. c̣n Phạm Văn Hưng, Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân cùng
các tướng pḥ Vua Thái Đức đều rút về Phú Xuân. Sau đó những quan văn quán Quy
Nhơn cũng bị đưa đi phục vụ ở các nơi khác và đưa những người ở nơi khác, nhất
là người Phú Xuân vào giữ những chức vụ quan trọng ở phủ huyện Quy Nhơn.
|