Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An tụ dũng sĩ,
mưu đồ chiếm cứ Nghệ An. Đồng thời ở Hà Bắc, Trịnh Bồng được tôn lên làm chúa.
Vua Lê Chiêu Thống bị nhà chúa ức hiếp bèn gọi Nguyễn Hữu Chỉnh về. Nguyễn Hữu
Chỉnh về đuổi được Trịnh Bồng. Vua Chiêu Thống phong Chỉnh làm B́nh Chương Quân
Quốc Trọng Sự, Đại Tư Đồ, lại gia tăng tước Bằng Quận Công. Nắm trọn quyền bính
trong tay, Chỉnh tự ư hoành hành. Muốn mở rộng ảnh hưởng vào Nam, Chỉnh lại
thông đồng với Nguyễn Duệ chiếm đất nghệ An, sửa lũy Hoành Sơn, lấy Linh Giang
làm giới hạn với Thuận Hóa, y như tiên triều.
Nguyễn Duệ bằng ḷng. Chẳng ngờ bị lậu
sự. Vơ Văn Nhậm hay được, gởi thư cáo biến với Bắc B́nh Vương. Vương sai Nhậm ra
bắt Duệ. Duệ biết trước cùng Nguyễn Huỳnh Đức bỏ trốn. Duệ về Quy Nhơn, Đức vào
Gia Định. Vương không cho đuổi theo, chỉ sai Nhậm trấn thủ Nghệ An để coi chừng
mặt Bắc.
Sẩy kế này bày kế khác, Nguyễn Hữu
Chỉnh bày Vua Chiêu Thống đ̣i lại đất Nghệ An.
Tháng tư năm Đinh Mùi (1787), Lê Chiêu
Thống khiến hoàng thân Lê Duy Anh cùng Trần Công Sán và Ngô Nho mang phẩm vật và
quốc thư vào Phú Xuân, Bắc B́nh Vương biết là mưu mô Nguyễn Hữu Chỉnh, bảo cho
Trần Công Sán biết rằng sẽ cho tướng đem binh ra Thăng Long lấy đầu kẻ sinh sự.
Biết Trần Công Sán là người hiền tài,
muốn trọng dụng, nhưg không thuyết phục được, Vương bèn sai đưa phái đoàn theo
đường biển về Thăng Long. Giữa vời, ngầm đục thuyền. Sán cùng phái đoàn đều bị
chết đuối. Có người hỏi bà Trần Mỹ Tuyết:
- Sao không dùng tài năng để thuyết
phục Trần Công Sán như đă thuyết phục Nguyễn Huỳnh Đức? Bà đáp:
- Huỳnh Đức là một vơ tướng chỉ có
ḷng trung nghĩa. C̣n Công Sán là kẻ sĩ học rộng hiểu sâu. Một lưỡi dao con là
ta, làm sao đốn nổi cây tùng trăm tuổi thọ? Lại hỏi:
- Cũng th́ nhân tài mà sao đối với
Nguyễn Huỳnh Đức nhà vua lại khoan hồng hơn đối với Trần Công Sán.
Đáp:
- Tài của Huỳnh Đức chỉ có thể lấy được
thành. Tài của Trần Công Sán có thể chiếm trọn cả nước, nếu biết thiện dụng, tận
dụng. Chữ Nhân phải đi song song với chữ Trí mới tránh khỏi chữ Ngu. Kẻ đại trượng
phu không thích mang tiếng ngu với đời.
Không thể để yên Nguyễn Hữu Chỉnh lộng
hành ở Bắc Hà, tháng 12 năm Đinh Mùi, Bắc B́nh Vương sai Vơ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở,
Phan Văn Lân kéo binh ra Thăng Long đánh Chỉnh.
Binh Vơ Văn Nhậm kéo ra Bắc Hà, đánh đâu
thắng đó. Nguyễn Hữu Chỉnh nghe cáo cấp, sai con là Hữu Du đem quân đi trước.
Đến sông Thanh Quyết, Du đắp lũy cố thủ. Lúc bấy giờ khí trời quá lạnh, quân sĩ
không chịu nổi phải nhúm lửa, nhóm nhau ngồi sưởi. Nhậm sai lính xoi lũy, kê
súng nhằm những chỗ có lửa bắn vào. Quân của Du kinh hăi vỡ chạy. Chỉnh ở B́nh
Vọng được tin quân của Du bị tan vỡ, đương đêm dẫn quân trở về thành Thăng Long,
đem vợ con chạy về Kinh Bắc.
Lê Chiêu Thống sảng sốt, không biết
làm thế nào, cùng dắt cung quyến chạy theo. Đến Kinh Bắc Vua sai Lê Quưnh cùng
hơn 30 người tôn thất đưa Hoàng Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng Tử lên Cao Bằng.
C̣n ḿnh cùng Nguyễn Hữu Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn, đất Yên Thế.
Binh Tây Sơn đuổi đánh, Hữu Du bị tử
trận. Hữu Chỉnh bị bắt giải về Thăng Long, c̣n Lê Chiêu Thống trốn thoát, chạy
vào núi Bảo Lộc ẩn núp.
Vơ Văn Nhậm kéo quân vào Thăng Long,
kể tội Chỉnh rồi đem giết. Nhậm cho t́m Vua Chiêu Thống không được. Các triều
thần chỉ c̣n lưa thưa mấy người. C̣n ở Kinh Bắc th́ có Trần Quang Châu, Sơn Nam
th́ có Nguyễn Việt Tân, Hải Dương th́ có Đinh Tích Nhưỡng... đều ứng binh hùng
cứ. Nhậm có ư sợ, nhưng chưa biết tính sao th́ có người ở Gia Lâm, tên là Trần Đ́nh
Khôi, tự xưng là quan thiệm sự của nhà Lê, tới nói rằng:
Bắc Hà oán Chỉnh tuy thâm mà ḷng nhớ
Lê chưa nhạt. Tự quân chạy trốn, không biết lúc nào về. Nay có Sùng Nhượng công
là Lê Duy Cẩn, trong lúc Tiên Đế hăy c̣n đă phong làm Đông Cung, từ gặp biến năm
Nhâm Dần, bị kiêu binh phế truất. Nếu tướng công rước Duy Cẩn về lập lại, chỉ
dán một tờ giấy tại cửa Đại Hưng, th́ nội trong một ngày, văn vơ bá quan nhóm
lại, đại sự của tướng công thành tựu dễ như trở bàn tay.
Nhậm theo lời, tôn Duy Cẩn làm Giám
Quốc để ở phía tả điện Cần Chánh.
Cựu thần nhà Lê không người nào theo.
Duy Cẩn ở trong điện với vài người hoàng thân và vài viên vơ tướng, suốt ngày
không thấy ai tâu hỏi việc ǵ.
Ngô Văn Sở bảo cùng Nhậm:
- Tôi xem tướng Sùng Nhượng công không
sao khu sách được người. Vả chăng từ xưa đến nay, thiên hạ không phải tư vật của
ai. Như nên lấy th́ lấy hẳn đi, sao lại để người như thế làm Giám Quốc? Chúng ta
đă lâu ngày chịu khổ với thành này, bây giờ trở lại làm người khách ngụ của pho
tượng gỗ này hay sao?
Nhậm khinh khỉnh nói:
- Ḷng người Bắc Hà c̣n nhớ Lê lắm,
không thể không theo chúng vọng được. Bọn ngươi chỉ biết mạnh đánh mà thôi. Việc
an dân đă có ta làm chủ.
Ngô Văn Sở làm thinh, trở ra nói cùng
Phan Văn Lân:
- Tiết Chế khinh người thái thậm! Tài
đức ǵ mà dám đăi chúng ta như đám sĩ tốt, việc lớn đều tự chuyên?
Bèn làm sớ mật tấu cùng Bắc B́nh Vương.
Được tin, Bắc B́nh Vương cười:
- Bạn tâm đă có từ lâu, bạn trạng măi
nay mới h́nh hiện.
Lập tức truyền lệnh xuất sư. Đi suốt
ngày đêm. Hơn 10 hôm đến Thăng Long. Nhậm không kịp trở tay, bị bắt. Hỏi:
- Tội ǵ?
Đáp:
- Ông tự biết lấy.
Đoạn truyền đem ra giết.
Rồi hiệu triệu các cựu thần nhà Lê về
chung lo việc nước. Vương vẫn để Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc lo
việc tế tự. C̣n thực quyền th́ giao cho Đại Tư Mă Ngô Văn Sở, có Nội Hầu Phan
Văn Lân, Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết, Chương Phủ Nguyễn Văn Dụng. Hộ bộ Thị Lang
Trần Thuật Ngôn và Lại bộ Tả Thị Lang Ngô Thời Nhậm... phụ tá. Vương lại cắt Đô
Đốc Ḥa Nghĩa hầu trấn thủ Kinh Bắc, Hô Hổ hầu trấn thủ Hải Dương, Giác Hầu ḥa
giữ bộ lại. Ước Lê hầu giữ bộ Lễ, Lộc Tài hầu giữ bộ H́nh.
Sắp đặt xong xuôi, vào khoảng cuối
tháng 5 năm Mậu Thân (1788), Vương trở về Phú Xuân, đem theo Phan Huy Ích.
Trừ Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn
Văn Tuyết[57] là người cũ của Tây Sơn, tất cả những người tham gia quốc sự đều
là cựu thần nhà Lê.
Trong số văn thần, Ngô Thời Nhậm và
Phan Huy Ích là hai danh sĩ Bắc Hà.
+ Ngô Thời Nhậm, tự là Hy Doăn, hiệu
là Đạt Hiên, con trai của Ngô Thời Sĩ, sinh năm Bính Dần (1746) tại làng Tả
Thanh Oai, huyện Thanh Tŕ, cách Thăng Long hơn mười cây số. Đậu Tấn Sĩ năm Ất
Mùi (1775). Làm quan nhà Lê đến chức Công bộ Hữu Thị Lang. Năm 1782, kiêu binh
nổi loạn, chạy trốn về quê vợ ở Sơn Nam.
Năm 1788, theo lời hiệu triệu của Bắc
B́nh Vương, Ngô Thời Nhậm là người đầu tiên hưởng ứng. Ngô đến chờ ở bộ Lễ. Viên
lễ quan Vơ Văn Ước tưởng lầm Ngô là Sùng Nhượng công, nên mời cùng ngồi với ḿnh.
Kế đó các quan lại cũ nhà Lê lục tục đến làm lễ dưới sân. Ngô áy náy vội đứng
dậy đi ra. Lúc ấy Ước mới biết ḿnh lầm, cho Ngô là vô lễ, cả giận, sai người đi
bắt. Tối hôm đó, Ngô đến dinh Trần Văn Kỷ, một danh sĩ đất Thuận Hóa đang được
Nguyễn Huệ trọng dụng, và có quen với Ngô khi Kỷ ra Thăng Long thi Hội năm Mậu
Tuất (1778). Ngô nói rơ việc ban sáng. Trần rất mừng nói[58] :
- Cố nhân đến đúng lúc. Bắc B́nh Vương
mến mộ tài cố nhân, sai tôi đi t́m. Bỗng không hẹn mà gặp.
Sáng hôm sau liền đưa Ngô vào yết kiến
Bắc B́nh Vương. Vương nói:
- Ngày trước, v́ chúa Trịnh không dùng,
người phải bỏ nước ra đi. Nếu ta không đến đây, người làm sao được thấy bóng mặt
trời? Có lẽ đó là ư trời muốn để dành người tài cho dùng. Vậy ngươi hăy cố gắng
mà lo việc báo đáp.
Đoạn truyền Trần Văn Kỷ thảo ngay tờ
chế phong Ngô làm Tả Thị Lang bộ Lại, tước T́nh Phái hầu, cùng với Vơ Văn Ước
coi tất cả các quan văn vơ nhà Lê[59].
+ Phan Huy Ích là em rễ Ngô Thời Nhậm.
Ông là con Phan Huy Cẩn, người làng Thu Hoạch huyện Thiên Lộc đất Nghệ Tĩnh, sau
dời đến làng Thụy Khê, huyện Thạch Thất thuộc Sơn Tây, rồi nối đời ở đó. Đỗ Đ́nh
Nguyên khoa Ất Mùi (1775) đỗ tiếp khoa Ứng chế năm Bính Thân (1776). Làm quan
với Vua Lê chúa Trịnh cho đến năm Đinh Mùi (1787), Lê Chiêu Thống bị Vơ Văn Nhậm
đuổi đánh, ông chạy về Sài Sơn ẩn lánh.
Ngô Thời Nhậm tiến cử họ Phan, Bắc
B́nh Vương phong là Thi Trung Ngự Sử và đem theo về Phú Xuân[60]. Trước khi lên
đường về Phú Xuân, Bắc B́nh Vương mở tiệc đăi các quan Văn Vơ. Trong bữa tiệc,
vương nói:
- Sở, Lân là nha trảo của ta. Dụng,
Ngôn là tâm phúc của ta, c̣n Nhậm là tân thần. Nay ta giao việc quân quốc mười
một trấn ở Bắc Hà cho các khanh, cho phép các khanh được tiện nghi hành sự. Nhưng
phải hội đồng thương nghị với nhau, đừng lấy lẽ mới cũ mà chống đối. Ấy là chỗ
hậu vọng của ta.
Lại nói:
- C̣n Lê Tự Hoàng là do ta lập nên.
Tánh t́nh ám muội, nên rước lấy bại vong. Nay để cho Sùng Nhượng công giám quốc,
e tương lai Tự quân lại cùng Sùng Nhượng tương tranh, nên bất đắc dĩ ta phải để
Tư Đồ Ngô Văn Sở ở lại giúp đỡ Sùng Nhượng. Chờ lúc nào bốn phương yên tĩnh, th́
ta lập tức triệu Tư Đồ về. Thật ḷng ta không phải lấy đất Bắc Hà này đâu.
Rồi cùng tướng sĩ lên đường.
Bắc B́nh Vương ra Thăng Long tháng 4
và trở về Phú Xuân tháng 5 ăm Mậu Thân (1788), đi về trong ngoài một tháng.
Nhân sĩ Bắc Hà, một số ra cộng tác
cùng nhà Tây Sơn, một số cố giữ ḷng trung với tiền triều, ẩn lánh nơi sơn lâm,
hoặc nổi dậy chống lại nhà Tây Sơn một cách quyết liệt. Trong số chống đối có
nhiều danh sĩ, như Trần Danh Án, Bùi Huy Kích, Phạm Quư Thích, Phạm Thái... Cũng
có đôi ba vơ tướng mộ quân khởi nghĩa nhưng đều bị dẹp tan.
Ngô Thời Nhậm, theo chính sách đoàn
kết rộng răi dùng người không phân biệt mới cũ và tấm ḷng yêu tiếc nhân tài
không lúc nào nguôi của Bắc B́nh Vương, đă góp phần lớn lao vào việc củng cố an
ninh và chính trị ở Bắc Hà.
CHIÊU
THỐNG RƯỚC TÀU
VỀ ĐÁNH
TÂY SƠN
Quân Nguyễn Hữu Chỉnh bị quân Tây Sơn
đánh thua. Vua Chiêu Thống hoảng hốt sai Lê Quưnh cùng hơn 30 người tôn thất đem
Hoàng Thái Hậu và Hoàng Hậu chạy sang Kinh Bắc, c̣n ḿnh th́ bỏ Thăng Long chạy
theo Nguyễn Hữu Chỉnh đến đóng ở Mục Sơn thuộc Yên Thế, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt,
nhà vua chạy đến Chí Linh định nhờ Trần Quang Châu và Lê Ban dấy binh lấy Hải
Dương làm cơ sở, nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đánh, nhà vua chạy vào Sơn Nam, định
nhờ tỳ tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh là Nguyễn Việt Tuyển, nhưng Tuyển đă bị quân
Tây Sơn đánh bại ở Hoàng Giang, nên nhà vua cùng Lê Ban chạy vào Thanh hóa. Sau
nghe lời Lê Duy Đoan trở về Kinh Bắc cho người qua cầu viện Thanh triều.
Về Kinh Bắc, Chiêu Thống sai hai người
bề tôi tin cẩn là Tham tri Chánh sự Lê Duy Đán và Phó Đô Ngự Sử Trần Danh Án
sang Trung Hoa.
Duy Đán và Danh Án theo đường núi trốn
qua biên thùy, đến ra mắt tri phủ Thái B́nh. Tri phủ Thái B́nh làm tờ đạt lời
cầu viện lên Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh và Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị.
Trong khi chờ đợi kết quả, Trần Danh
Án có thơ cảm hoài :
Giá cô tại Giang Nam
Đỗ quyên tại Kinh Bắc
Giá cô minh gia gia
Đỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử t́nh vô cực.
Nghĩa là :
Giang Nam th́ chim đa
Kinh Bắc th́ chim quốc
Chim đa kêu gia gia
Chim cuốc kêu quốc quốc
Nghe chim kêu tiếng quốc gia
Ḷng cô thần những xót xa trăm chiều.
Trong lúc đó, Lê Quưnh, Nguyễn Huy Túc
đă đưa Thái Hậu qua Tàu, nhờ viên Đô Ty Long Bằng Trần Hồng Thuận tŕnh Quảng
Tây Giang tả Dương Hùng Nghiệp bẩm lên Tôn Sĩ Nghị.
Nhận được hai lời thỉnh cầu cùng lúc.
Nghị bèn làm sớ dâng về triều.
Vua Càn Long chuẩn y lời Tôn Sĩ Nghị
và sai Nghị cầm 20 vạn binh sang Việt Nam, mượn cớ giúp Vua Lê đánh Tây Sơn để
đặt nền đô hộ lên đất Việt.
Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm ba đạo:
Một đạo do Tổng binh tỉnh Vân Nam và Quư Châu kéo sang mạn Tuyên Quang.
Một đạo do Sầm Nghi Đống kéo sang mạn
Cao Bằng.
Một đạo do Nghị cùng Đề Đốc Hứa Thế
Hanh kéo sang mạn Lạng Sơn.
Khí thế rất mạnh.
Ba đạo quân Thanh tiến vào nước ta vào
khoảng giữa tháng 10 năm Mậu Thân (1788). Sĩ Nghị truyền hịch kể tội nhà Tây Sơn
và kêu gọi thần dân nhà Lê ra hợp tác.
Viên trấn thủ Lạng Sơn Phạm Khải Đức
khiếp sợ, kéo cờ hàng. Phó tướng Nguyễn Văn Diễm chạy về Kinh Bắc cùng Nguyễn
Văn Ḥa cố thủ, rồi sai người về Thăng Long cáo cấp.
Được tin, Ngô Văn Sở dùng kế hoăn binh,
khiến Nguyễn Quư Nha và Trần Bá Lăm mang ba tờ bẩm văn kư tên Sùng Nhượng công
và bá quan văn vơ, đến quân thự Tôn Sĩ Nghị cầu ḥa. Sĩ Nghị bác khước Ngô Văn
Sở bèn nhóm văn vơ lại thương nghị. Nguyễn Văn Dụng đề nghị dùng phục binh đánh
địch. Ngô Thời Nhậm nói:
- Quân địch mới tới, sức c̣n mạnh khí
đương hăng, lại khoa trương thanh thế làm kinh động nhân dân. Nếu ta đem quân ra
khỏi thành sẽ bị chúng sát hại. Cựu binh sĩ của Bắc Hà nhuệ khí vốn đă nhụt,
thừa cơ trốn hết. Chừng ấy ta muốn đánh th́ không hơn, mà muốn giữ cũng không đặng.
Chẳng phải là thiện sách. Chi bằng rút hết quân thủy bộ vào đóng giữ từ Tam Điệp
ra đến biển, để bảo toàn lực lượng rồi cho cáo cấp về Phú Xuân. Lúc đó ta sẽ quyết
chiến cũng không muộn.
Ngô Văn Sở nói:
- Giặc đến chưa đánh đă chạy, tôi e
đắc tội với Bắc B́nh Vương.
Ngô Thời Nhậm đáp:
- Lương tướng thời xưa, lường sức giặc
trước rồi mới định việc công hay thủ. Nay ta đem toàn quân lui về, chẳng qua là
cho chúng ngủ nhờ một đêm, sáng ngày đuổi đi, có ǵ quan trọng. Nếu Bắc B́nh Vương
hỏi tội tôi sẽ bẩm biện. Ông cứ yên tâm.
Ngô Văn Sở liền cho gọi binh các trấn
Kinh Bắc, Thái Nguyên, Hải Dương, Sơn Tây đến tập hợp tại Bắc Thành trấn Sơn Nam,
rồi đồng tiến vào Tam Điệp.
Chợt có tin quân Thanh đă qua khỏi ải
Nam Quan, Phan Văn Lân nổi nóng:
- Nước không cần phải lớn, binh không
cần phải nhiều, hễ quyết chiến th́ thắng. Nay làm tướng nắm binh quyền ở cơi
ngoài mà giặc đến không đánh th́ làm tướng để làm ǵ ?
Rồi thừa đêm tối đem quân ra đi. Đến
bờ phía nam sông Nguyệt Đức th́ nghe quân Thanh đă tới núi Tam Tằng, Lân đốc
binh sĩ liều lạnh lội càn qua sông. Quân chết đuối quá nửa. C̣n một nửa vừa đến
bờ bên kia th́ quân địch đánh giết hết. Lân một người một ngựa sống sót chạy trở
về. Ngô Văn Sở cả kinh, giấu kín việc Lân, khiến chư tướng chỉnh tế đội ngũ,
trực tiến đến Tam Điệp.
Đến Tam Điệp vào ngày 20 tháng 11 năm
Mậu Thân (17-12-1788). Một mặt chia đồn cố thủ, một mặt cho Nguyễn Văn Tuyết về
cáo cấp Phú Xuân.
Không gặp sức cản trở đáng kể, Tôn Sĩ
Nghị tiến quân dễ dàng. Đến Kinh Bắc được Vua Chiêu Thống đón tiếp trọng thể.
Nghị cùng nhà vua trực chỉ đến Thăng Long cho đại quân hạ trại ở Yên Phụ c̣n tướng
doanh th́ đặt tại Tây Long Cung. Để tiện việc qua lại, một dăy cầu phao bắc
ngang qua sông Nhị. Ngày hôm sau (21 tháng 11 năm Mậu Thân), Nghị phong Vua
Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương tại điện Kính Thiên và quyết định sau tết
Nguyên Đán mới xuất quân đánh Nguyễn Huệ.
Vào thành Thăng Long như vào chỗ không
người, Nghị nghĩ rằng đánh dẹp Tây Sơn sẽ dễ dàng như lấy đồ trong túi, nên lơ đăng
việc binh, ngày ngày lo hưởng lạc thú.
Vua Chiêu Thống tuy đă thụ phong, nhưng
phải theo niên hiệu Càn Long, và việc ǵ cũng phải bẩm lên Tôn Sĩ Nghị. Mỗi ngày
sau buổi chầu, Chiêu Thống phải đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật. Nhiều
khi Nghị không cho vào, chỉ sai một người ra bảo: Không có việc ǵ quan trọng,
Vua hăy về cung nghĩ. Thế mà không biết nhục, ngày ngày chỉ lo việc báo ân báo
oán giết hại những người đă theo Tây Sơn. Một người tôn nữ kết duyên cùng một tướng
Tây Sơn, đă có mang. Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy thai nhi giết chết! Ba người
hoàng phái hàng vai chú nhà vua, bị chặt chân quăng ra giữa chợ. Việc chém giết
v́ tư thù không ngày nào không có. Lương dân khủng khiếp!
Một số nhân sĩ, trước hành vi tàn bạo
của Chiêu Thống vẫn ôm mối cô trung như Bùi Huy Bích, Phạm Quư Thích, Phạm Đan
Phụng... Có người nói Trung là trung với nhà Lê chớ đâu phải trung với Vua Chiêu
Thống. Lại có người nói Quân bất kính thần bất khả bất trung[61].
Những quan lại cũ đă bỏ trốn trong lúc
Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết, nghe tin Vua Chiêu Thống trở về, lục tục kéo nhau tới
thành đô bái yết và đến xin Tôn Sĩ Nghị ra quân đánh Tây Sơn. Nghị đáp:
Năm đă gần hết. Đi đâu mà vội vàng?
Giặc c̣n gầy, ḿnh dung túng cho nó ít lâu là nuôi cho nó béo, để rồi nó đem
thịt đến nạp cho ḿnh xơi, chẳng hay lắm sao?
Rồi truyền ba quân đóng trại nghỉ ngơi
để ra giêng chiến đấu.
Quân lính của Sĩ Nghị thấy chủ tướng
tham tàn dâm dật, tướng lệnh lại không nghiêm minh, nên tha hồ ngang dọc. Những
vụ cướp bóc, hăm hiếp, tàn sát... xảy ra hàng ngày. Nhân dân không mấy lúc được
ăn ngon, ngủ yên. Nơi nơi đồ thán!
Cảnh nước loạn dân khổ đến thế là cùng
cực.
Người người đều
trông mong cuộc đời đổi thay.
|