Cụ tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà
Tĩnh. Tổ tiên nhà cụ đời đời làm quan với nhà Hậu-Lê. Cụ có khí tiết: sau khi
Tây Sơn dứt nhà Lê, cụ không chịu ra làm quan, chỉ lấy chơi bời săn bắn làm vui,
trong chín mươi chín ngọn núi Hồng Sơn (ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh) không chỗ nào
cụ không đi tới.
Năm Gia Long nguyên niên (1802), cụ được triệu ra làm tri-huyện huyện Phù Dực (nay
thuộc Tỉnh Thái Bình), rồi được ít lâu thăng tri-phủ Thường Tín (Hà Đông). Năm
thứ tám (1809), cụ ra làm cai-bạ tỉnh Quảng Bình. Năm thứ mười hai (1813), thăng
Cần-chánh điện học-sĩ, sung làm chánh-sứ sang cống bên Tàu. Đến khi về, thăng Lễ
bộ hữu tham-tri. Năm Minh-mệnh nguyên niên (1820), lại có mệnh sang sứ Tàu, nhưng
chưa kịp đi thì cụ mất, thọ 56 tuổi.
Cụ học rộng, không những tinh thâm nho học, lại thông đạt cả đạo Phật, đạo Lão.
Cụ làm nhiều thơ văn và sách vở bằng chữ nho, như Thanh hiên tiền hậu tập, Bắc
hành thi tập, Nam trung tạp ngâm, Lê quý kỷ sự. Cụ lại có biệt tài về văn nôm.
Khi đi sứ Tàu về, cụ có soạn quyển truyện Thúy-Kiều mà nguyên lúc đầu tác-giả
đặt nhan là Đoạn trường tân thanh (đoạn trường: đứt ruột; tân thanh: tiếng mới).
Tác Phẩm
Truyện Thúy-Kiều nguyên cụ Nguyễn Du phỏng theo quyển tiểu thuyết Tàu mà làm ra.
Song cụ chỉ lấy cốt truyện của Tàu, còn cách kết cấu, cách thuật các tình tiết,
tả các nhân vật đều thay đổi châm chước cho hợp với tâm tính và phong tục người
Nam.
Chủ ý của tác giả là cốt gửi tâm sự mình trong cuốn truyện: Cụ vốn coi mình như
một cựu thần của nhà Lê, mà gặp lúc quốc biến không thể giữ trọn chữ trung với
Lê Hoàng, lại phải ra thờ nhà Nguyễn. Cảnh ngộ thật không khác gì Thúy Kiều đã đính
ước với Kim Trọng mà vì gia biến phải bán mình cho người khác, không giữ được
chữ trinh với tình quân. Bởi vậy, cụ mượn truyện nàng Kiều để bộc bạch tâm sự
của cụ. Trong truyện cụ lại khéo mô tả thế thái nhân tình, thật là rạch ròi chí
lý.
Lại thêm lời văn rất hay: từ đầu đến cuối, không câu nào non, không chữ nào ép,
thứ nhất là những câu chuyển thì thật là thần tình. Các lối văn như tả cảnh, tả
tình, vẽ người, kể việc đều đủ cả mà lối nào cũng khéo hay.
Lược Truyện
1. Tác giả đem cái thuyết "tài mệnh tương đố" (tài mệnh ghét nhau) nêu lên làm
luận đề cuốn truyện.
2. Thúy Kiều nhân chuyến đi thanh minh thì gặp Kim Trọng, hai bên đính ước nhau.
3. Khi Kim Trọng từ biệt Kiều về hộ tang chú thì Vương Ông bị thằng bán tơ vu
oan phải bắt. Để có tiền chuộc tội cha, Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh và theo
hắn về Lâm-Chi.
4. Mã Giám Sinh giao Kiều cho Tú Bà một mụ chủ hàng thanh-lâu. Kiều biết bị lừa
nên toan bề tự tận. Tú Bà mới dỗ Kiều cho ra ở lầu Ngưng Bích nghỉ ngơi, hứa tìm
nơi xứng đáng gã. Tú Bà lập mưu sai Sở Khanh ra mặt nghĩa hiệp rủ Kiều trốn. Sau
đó Kiều bị Tú Bà Bắt về ép ra tiếp khách.
5. Thúc Sinh lấy Kiều làm thiếp. Vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen, đến bắt Thúy
Kiều về hành hạ.
6. Kiều trốn nhà Hoạn Thư đến ở chùa với bà vãi Giác Duyên. Ít lâu, bà cho Kiều
sang ở nhà một người đàn bà hay đến lễ chùa là Bạc Bà. Không ngờ Bạc Bà giả lễ
cưới Kiều cho cháu mình là Bạc Hạnh để bán Kiều cho Tú Bà thanh-lâu ở Châu Thai.
Tại đây Kiều gặp tướng giặc Từ Hải lấy làm vợ. Kiều nhân dịp báo ơn xưa, trả oán
cũ. nhưng không lâu Từ Hải mắc lừa bị giết. Kiều đâm đầu xuống sông Tiền Đường,
nhưng nhờ bà vãi Giác Duyên vớt đem ở am của bà.
7. Kim Trọng sau khi hộ tang chú, trở lại tìm Kiều; nghe tin Kiều bán mình, mới
nghe lời Kiều dặn lúc ra đi, lấy Thúy Vân. Sau, cùng với vương Quan đi thi đỗ
làm quan, mới dò la tin tức Kiều, rồi gặp bà Giác Duyên đưa đến chỗ Kiều ở. Hai
bên lại được đoàn tụ.
8. Đoạn kết tác giả nhắc lại thuyết "tài mệnh tương đố" mà khuyên người ta giữ
lấy "Thiện tâm".
|