ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
T̉A THÁNH TÂY NINH

 

 

LỜI THUYẾT ĐẠO
CỦA
ĐỨC HỘ PHÁP

 

Năm Mậu Tư (1948)

QUYỂN NH̀

 

 

Hội Thánh Giữ Bản Quyền

In lần thứ nhứt
Năm Quư Sửu (1973)

 

 

 

 

LỜI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
  Năm Mậu Tư (1948)

 Do Ban Đạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Quư Sửu (1973)
 Kiểm Duyệt Kinh Sách số: 120/KD ngày 12-10-1970



 

CẨN TỪ CỦA THÁNH THẤT NSW - AUSTRALIA

 

Chúng tôi tŕnh bày quyển Lời Thuyết Đạo của Đức HỘ PHÁP Năm Mậu Tư (1948) do Ban Đạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Quư Sửu (1973) có những phần khác biệt sau đây so với bản chánh về mặt h́nh thức (nội dung vẫn y nguyên):

1./ Sửa một số lỗi chánh tả thông thường (khi gặp phải) căn cứ vào quyển Việt Nam Tân Tự Điển của Thanh Nghị do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 12 năm 1967 & Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.

2./ Phụ ghi vào cuối một số bài khi gặp một vài nghi vấn (có thể) được Ban Đạo Sử duyệt xét lại sau nầy.

3./ Phụ ghi ngày và tháng dương lịch (cho những bài không ghi rơ ngày & tháng) căn cứ theo Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996.

Kính cáo,

 

Tháng 01 năm 2004 (Tháng giêng năm Giáp Thân)
Thánh Thất NSW - Australia



 

MỤC LỤC

Quyển 2: Năm Mậu Tư (1948)

 

 

1.     01-01-Mậu Tư (dl. 10-02-1948)
Đạo Cao Đài là hoàn thuốc phục sinh ḥa b́nh.

2.     02-01-Mậu Tư (dl. 11-02-1948)
Ngày xuân là ngày phục sinh của vạn vật.

3.     03-01-Mậu Tư (dl. 12-02-1948)
Huấn từ sau bữa tiệc đầu xuân.

4.     03-01-Mậu Tư (dl. 12-02-1948)
Quyền năng của nền Tôn Giáo.

5.     04-01-Mậu Tư (dl. 13-02-1948)
Quyền năng của nền Tôn Giáo. (tiếp theo)

6.     29-01-Mậu Tư (1948)
Khi vô Đền Thánh phải bỏ hết phàm tâm.

7.     01-02-Mậu Tư (1948)
Liên quan con cái Chí Tôn với Ngài.

8.     14-02-Mậu Tư (dl. 24-03-1948)
Hộ Pháp hành pháp mỗi khi vô cúng đàn.

9.     15-02-Mậu Tư (dl. 25-03-1948)
Ư nghĩa đi hoán đàn (Cúng Đại Đàn).

10.  09-01-Mậu Tư (dl. 19-02-1948)
Đạo là sự sống trong Càn Khôn Vũ Trụ.

11.  15-01-Mậu Tư (dl. 24-02-1948)
Thể chất và tánh đức các hạng khách trần.

12.  26-01-Mậu Tư (dl. 06-03-1948)
Việt
Nam được độc lập trong Liên Hiệp Pháp.

13.  15-02-Mậu Tư (1948)
Để cả đức tin nơi Phật Mẫu.

14.  19-02-Mậu Tư (dl. 29-03-1948)
Thiên cung của mỗi con cái Đức Chí Tôn.

15.  21-02-Mậu Tư (dl. 31-03-1948)
Nhiều kẻ được gọi mà ít người đến.

16.  23-02-Mậu Tư (dl. 02-03-1948)
Vận mạng của nước Việt
Nam hiện thời.

17.  15-03-Mậu Tư (1948)
Đ̣i lại chủ quyền của Việt
Nam.

18.  01-04-Mậu Tư (1948)
Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo.

19.  05-04-Mậu Tư (1948)
Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo. (t.t.)

20.  14-04-Mậu Tư (1948)
Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo. (t.t.)

21.  05-05-Mậu Tư (dl. 11-06-1948)
Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo. (t.t.)

22.  12-05-Mậu Tư (dl. 18-06-1948)
Bảo thủ thuần phong mỹ tục.

23.  19-05-Mậu Tư (dl. 25-06-1948)
Phong hóa Việt
Nam đối với phong hóa các dân tộc Vạn quốc.

24.  23-05-Mậu Tư (1948)
Phong hóa Việt
Nam đối với các chủng tộc khác. (t.t.)

25.  01-06-Mậu Tư (dl. 07-07-1948)
Phong hóa Việt
Nam đối với các chủng tộc khác. (t.t.)

26.  05-06-Mậu Tư (dl. 11-07-1948)
Phương pháp tổ chức xă hội trong hương thôn Việt
Nam.

27.  09-06-Mậu Tư (dl. 15-07-1948)
Đệ nhứt chủ quyền của xă hội Việt
Nam.

28.  15-04-Mậu Tư (dl. 23-05-1948)
Ư nghĩa về nhạc "Nhạc tấu Huân Thiên".

29.  19-04-Mậu Tư (dl. 27-05-1948)
Tân Nội Các Quốc Gia Việt
Nam.

30.  28-04-Mậu Tư (dl. 05-06-1948)
Vận mạng quốc dân Việt
Nam.

31.  09-05-Mậu Tư (dl. 15-06-1948)
Lễ tiếp rước ông Tổng Trưởng Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại.

32.  14-05-Mậu Tư (dl. 20-06-1948)
V́ sao Đức Hộ Pháp cầm quyền Nhị Hữu H́nh Đài.

33.  15-03-Mậu Tư (1948)
Quả kiếp của Dân tộc Việt
Nam.

34.  24-05-Mậu Tư (dl. 30-06-1948)
Đức Chí Tôn hành pháp tại Kiêm Biên.

35.  14-06-Mậu Tư (1948)
Của cải số 1 của chúng ta tại thế nầy.

36.  23-06-Mậu Tư (dl. 29-07-1948)
Luật pháp và quyền điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ.

37.  24-06-Mậu Tư (dl. 30-07-1948)
Lịch sử Quan Thánh Đế Quân.

38.  28-06-Mậu Tư (dl. 03-08-1948)
Hội Thánh là ǵ?

39.  01-07-Mậu Tư (dl. 05-08-1948)
Pháp Chánh Hiệp Thiên là ǵ? Và h́nh luật Tam Giáo là ǵ?

40.  11-11-Giáp Ngọ (dl. 05-12-1954)
Đức Hộ Pháp dạy.

41.  06-07-Mậu Tư (dl. 10-08-1948)
Đức tánh Trung Hiếu Nghĩa.

42.  09-07-Mậu Tư (1948)
Luật tương đối hay là phản ảnh của hai thái cực chơn thật và giả dối.

43.  12-07-Mậu Tư (1948)
Huấn từ Lễ Măn Khóa Hạnh Đường.

44.  17-07-Mậu Tư (1948) Cha mẹ phải nêu gương tốt cho con noi theo.

45.  16&17-07-Mậu Tư (1948)
Lễ Khánh Thành Đền Thờ Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện.

46.  15-08-Mậu Tư (1948)
Lễ Hội Yến Diêu Tŕ.

47.  15-08-Mậu Tư (1948)
Lễ Trung Thu.

48.  09-07-Mậu Tư (1948)
Đức Hộ Pháp đi Sàig̣n về nền độc lập Việt
Nam.

49.  17-08-Mậu Tư (dl. 19-09-1948)
Nhơn t́nh thế sự đối với nhơn t́nh đạo đức.

50.  27-08-Mậu Tư (1948)
Việt
Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp.

51.  03-09-Mậu Tư (1948)
Đức Hộ Pháp thuyết minh sau khi hội đàm với Thượng Sứ Pháp.

52.  14-09-Mậu Tư (1948)
Sự điều ḥa Càn Khôn Vơ Trụ.

53.  02-10-Mậu Tư (1948)
Lễ cầu siêu chiến sĩ trận vong.

54.  13-10-Mậu Tư (1948)
Lễ Kỷ Niệm Đức Quyền Giáo Tông.

55.  15-10-Mậu Tư (1948)
Lễ Hạ Ngươn năm Mậu Tư.

56.  15-01-Ất Mùi (1955)
Đức Hộ Pháp thuyết trong dịp lễ thiêu xác các Thánh Tông Đồ.

57.  01-11-Mậu Tư (dl. 01-12-1948)
Món ăn của Linh hồn.

58.  09-11-Mậu Tư (dl. 09-12-1948)
Năng lực tinh thần đạo đức.

59.  24-11-Mậu Tư (dl. 24-12-1948)
Vía Đức Chúa Jésus Christ.

60.  23-12-Mậu Tư (1948)
Bác Ái Công B́nh.

61.  30-11-Mậu Tư (1948)
Đại hùng, đại lực, đại từ bi.

62.  15-12-Mậu Tư (1949)
Luật quyền.

63.  23-12-Mậu Tư (1949)
T́m ḥa b́nh và hạnh phúc.


 

Thánh Thơ của Thượng Sanh.

 

HIỆP THIÊN ĐÀI

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Văn Pḥng

(Tứ Thập Ngũ Niên)

Thượng Sanh

T̉A THÁNH TÂY NINH

-----
Số: 121/TS


 

 

Thượng Sanh
Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài

 

Kính gởi:

Hiền Huynh Hiến Pháp
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh

Tham chiếu quư Thánh thơ số 16/ĐS ngày 12-6-1970.

 Kính Hiền Huynh,

Theo đề nghị của Hiền Huynh tôi chấp thuận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những Bài Thuyết Đạo tại Ṭa Thánh của Đức Hộ Pháp từ năm 1946 đến năm 1955.

Những bài giảng được chọn để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.

Nay kính,

T̉A THÁNH, ngày 14 tháng 5 năm Canh Tuất.
(dl. 17-6-1970)

Thượng Sanh
(Ấn kư)

Lời Tựa.

 

Những bài Thuyết Đạo trong quyển sách nầy là lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ Pháp, một vị Giáo Chủ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, một bậc vĩ nhân của thế hệ, nên một Ủy Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức Thượng Sanh chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn tống các bài Thuyết Đạo ấy. Nay cuộc sưu tầm và biên tập đă có kết quả mỹ măn, nên Ủy Ban đem ra ấn tống cho toàn Đạo được thưởng thức lời vàng tiếng ngọc nói trên.

Trong Ban Đạo Sử của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đă có sẵn một Thư Viện tàng trữ các loại Kinh Sách cổ kim và Đông Tây cho các nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu. Những quyển "Lời Thuyết Đạo" của Đức Hộ Pháp cũng sẽ lưu trữ vào Thư Viện nầy để chư đọc giả đến xem.

Đức Hộ Pháp là một trong các vị tiền bối khai sáng nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, đă thực hiện trước hết chủ thuyết Tam Lập: "Lập đức, lập công, lập ngôn".

Về lập đức, th́ Đức Ngài là người đầu tiên đă nghe theo tiếng gọi thiêng liêng mà khai sáng mối Đạo cho toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Về lập công, th́ Đức Ngài vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không mà làm ra cái có, bắt gió nắn h́nh tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cơi thế nầy. Nếu Ngài không phải là một đại đức th́ làm sao thành công được?

Về lập ngôn, th́ Đức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết Đạo mà chúng ta đang thưởng thức và c̣n nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quí đọc giả và toàn Đạo nên lưu ư.

Nhơn danh Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng đọc giả bốn phương quyển sách quí giá nầy đáng được lưu niệm măi măi.

Trân trọng kính chào.

Hiến Pháp TRƯƠNG HỮU ĐỨC.


 

Lời Trần Thuyết của Ban Tốc Kư.

 

Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa.

Nh́n vào lịch sử, những vụ "Phần Thư", những vụ chiếm đoạt thư tịch đă xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. T́nh trạng nầy đă kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.

Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.

Chúng tôi nghĩ: Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền cướp đến phá. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và kư thác vào những tâm hồn trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng thay Trời dạy Đạo.

Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các cuộc "Phần Thư" lại diễn th́ thiết tưởng trong số tài liệu nầy vẫn c̣n có nhiều người nhiệt tâm ǵn giữ được vẹn toàn.

Đây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của ḿnh để phụng sự cho lư tưởng bảo tồn truyền thống giáo lư của Đạo. Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị th́ cũng đă có người v́ quá hăng say trong công việc thực hiện lư tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên cổ.

Việc làm của chúng tôi không phải là một ư nghĩ nông nỗi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Đức Chí Tôn và Phật Mẫu ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.

Ngày nay chân trời đă rạng tỏ, ư nguyện đă đắc thành.

Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đă ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ Pháp.

Từ đây bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu ái của Đức Hộ Pháp, đă dành cho chúng ta trong thời gian Đức Ngài c̣n tại thế.

Ṭa Thánh, ngày rằm tháng 6 năm Bính Ngọ (1966)

Ban Tốc Kư


 

01- ĐẠO CAO ĐÀI LÀ HOÀN THUỐC PHỤC SINH H̉A B̀NH.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 1 tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 10-02-1948)

 

Ngày hôm nay, giờ nầy chúng ta vui một tí, năm Tư đến với chúng ta, nếu Bần Đạo nhớ không lầm th́ buổi Chí Tôn hành pháp có cho Bần Đạo biết rằng 3 con chuột hiệp lại là ngày thành Đạo. Năm nay đủ 3 con chuột rồi đó vậy. Ta chắc rằng năm nay Đạo sẽ kết quả lời hứa của Chí Tôn với con cái của Ngài, thành Đạo tức thành Đời nơi nước Việt Nam đó vậy.

Chúng ta thử ôn lại đă có 23 năm hành đạo, chúng ta đă chịu bao nhiêu khổ hạnh để bảo vệ con cái của Chí Tôn. Ngày nay cái kết quả nầy có đáng giá trừ cái khổ hạnh trong 23 năm ấy chăng? Bần Đạo xin nói quả quyết rằng: Từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa có nền tôn giáo nào được mau chóng như Tôn Giáo của Chí Tôn đến tạo nơi xứ Việt Nam chúng ta. Chúng ta ôn thử lại trong buổi thành Đạo cuối cùng trong 2 năm nay, ta thấy ǵ? Nếu chúng ta có đủ tinh thần t́m hiểu Thánh ư của Chí Tôn trong 22 năm, để cho chủng tộc Việt Nam chịu đau khổ, chịu trong cảnh tương tàn, tương sát, thống khổ, cảnh tượng nguy ngập có nghĩa ǵ? Ư vị ǵ? Ấy là Đức Chí Tôn xây chuyển cho con cái của Ngài thấy rằng: Hung bạo ở thế gian, không phải năng lực độc đoán mà thắng được và trị thế được.

Cường lực! Ôi cường lực! Đối với thế gian nầy, nếu có phương chước, có bí pháp th́ duy lấy nhơn đức trị nó mà thôi. Hung bạo của đời nầy không lấy hung bạo trị đặng, duy lấy đạo đức tinh thần trị mới đặng. Trong 2 năm quốc vận thống khổ do duyên cớ ǵ? Do lấy hung bạo trị hung bạo. Lấy hung bạo chẳng trừ được năng lực hung bạo v́ hiện giờ sự hung bạo của thế gian vô đối. Ấy là Chí Tôn cho quốc dân Việt Nam một bài học đích đáng đủ bằng cớ trước mắt để suy đời. Ngài để kinh nghiệm hai năm rồi. Ngài lấy năng lực đạo đức tinh thần để cho thiên hạ thấy: Đạo đức tinh thần mới có thể đem hạnh phúc đến cho ṇi giống như thế nào? Làm cho tỏ rạng nền tôn giáo bằng năng lực tinh thần của Ngài, chúng ta đă thấy: Bần Đạo sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại, chịu mọi điều thống khổ, cái chết của Bần Đạo cách cái sống bằng một sợi tóc, mà Bần Đạo vẫn c̣n về đây. Nếu nói thế thường, cái t́nh cảnh chịu 5 năm khổ sở lao lư ấy, tinh thần, lấy vật h́nh thường t́nh tâm lư mà nói, không ai không cố hận, cố phiền được, hận với phiền nó cố nhiên, mà nếu hận phiền ấy theo tâm lư thường t́nh th́ có ǵ quan hệ đâu. Trái lại trong thi hài của Phạm Công Tắc c̣n có một vị làm chủ của nó nữa là Hộ Pháp; quyền của Hộ Pháp mạnh mẽ hơn của Phạm Công Tắc là con ngựa để cỡi mà thôi, c̣n Hộ Pháp là người cỡi, nên con ngựa không thể không tuân mạng lịnh của chủ nó được. Hộ Pháp có một phần, mà Phạm Công Tắc có một phần, Phạm Công Tắc là tôi, c̣n Hộ Pháp là quyền năng của Chí Tôn.

Ṇi giống Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho phong 4.000 năm đă để cho chúng ta hai câu đích đáng, nếu chúng ta biết dùng từ thử nước Việt Nam không có cảnh tượng ngày nay:

"Hành thiện chi nhơn như xuân viên chi thảo, bất kiến kỳ trưởng nhựt hữu sở tăng. Hành ác chi nhơn như ma đao chi thạch, bất kiến kỳ tổn nhựt hữu sở khuy".

Câu trước: Người làm lành như vườn cỏ mùa xuân không thấy lớn càng ngày càng tăng thêm. Câu sau: Người làm ác như cục đá mài dao, tuy không thấy hao mà càng ngày càng ṃn khuyết. Lấy nhơn nghĩa đối với bạo tàn, lấy tâm ưu ái trả thù hận, ấy là tâm Phật, phải tâm chí Thánh mới làm đặng. Bần Đạo làm đặng, đặng chi? Đặng nêu cao tinh thần Đạo Cao Đài nầy lên như Chí Tôn muốn.

Lẽ th́ đem hung bạo trừ hung bạo, theo thường t́nh th́ mới vui ḷng, thỏa măn tâm phàm của Phạm Công Tắc th́ ắt vui mầng lắm chớ. Nhưng Hộ Pháp v́ biết hại cho tương lai nước nhà, nên cầm cây huệ kiếm đưa ra, lấy tâm lư yêu ái đối lại với oán ghét, cốt yếu làm cho nhơn loại, làm chứng rằng chơn truyền của Đạo Cao Đài là hườn thuốc "Phục sinh ḥa b́nh" cho nhơn loại. Quốc dân Việt Nam làm đặng th́ toàn cầu mới làm đặng. Ai cầm huệ kiếm ấy đặng, th́ họ cứu nước họ đặng, cũng như Việt Nam đă cứu nước Việt Nam vậy.


 

02- NGÀY XUÂN LÀ NGÀY PHỤC SINH CỦA VẠN VẬT.

 

Tại Đền Thánh, đêm mồng 2 tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 11-02-1948)

 

Bần Đạo không thể đi cùng mỗi nhà của toàn cả Chức Sắc Thiên Phong và mấy em Nam Nữ đặng viếng thăm trong ba ngày xuân nhựt. Một mảnh thân muốn biến hóa ra cả muôn h́nh xác, nhưng không thể đặng.

Vậy thời Bần Đạo cũng để một đôi lời cho mấy em, mấy con Nam Nữ, mấy anh mấy chị có mặt đảnh lễ tại đây biết rằng: Buổi nào tinh thần của Bần Đạo cũng ở bên cạnh mỗi người cả thảy.

Một điều mà Bần Đạo mơ ước hơn hết là ngày giờ nào thong dong, Bần Đạo được vui thú thanh nhàn, nay đi nhà nầy ở một ngày, một bữa, mai đi nhà kia ở một đôi lát. Ngày nào đến cảnh an nhàn mà Bần Đạo được đạt vọng dường ấy, th́ tưởng rằng không c̣n hạnh phúc nào hơn nữa. Bần Đạo tưởng mảnh thân nầy có phương thế đồng sống chung với mấy em trong cảnh gia đ́nh ấm lạnh để cùng hiểu nhau những nỗi tân khổ sầu buồn th́ Bần Đạo rất hữu hạnh mà được chia mảy mún cũng đặng, dầu cắn hột muối hay ăn hột cơm rơi với mấy em, th́ tưởng trọn kiếp sống của Bần Đạo không có cảnh vinh quang phú quí nào trên thế gian nầy đối đặng.

Cả thảy đến thăm Bần Đạo, mà Bần Đạo đi thăm lại không đặng, theo đạo pháp cho là thất lễ. Xin cả thảy nên biết cái cảnh ngộ và tha thứ dùm cho.

Ngày xuân nói đến tiếng xuân, miệng nói tiếng xuân là nói tiếng sống, vạn vật ngày xuân nầy là sống là ngày phục sinh. Qua mơ ước tâm hồn của cả thảy trong một năm già cỗi, trong lúc xuân đến, cây cối nở lá nở bông, tốt tươi trở lại, tức nhiên là được phục sinh lại th́ cả tâm hồn của chúng ta cũng phục sinh như thế.

Mấy em suy gẫm cái thân sanh của chúng ta là đồng sanh với vạn vật, mà vạn vật đă phục sinh th́ thân h́nh của chúng sanh, của chúng ta, của cả thảy Nam, Nữ cũng đồng phục sinh lại. Tâm hồn của chúng ta trong một năm mờ mệt, khổ năo, nhọc nhằn, trong cảnh tang thương trần thế, nay xuân về, mấy em đến nhà Đại Từ Phụ, tức là Suối Vĩnh Sanh của tâm hồn mấy em. Qua thành tâm cầu xin Đại Từ Phụ ban ơn cho mấy em được phục sinh trong Thánh chất của Người.

Chắc chắn cả thảy đều được hạnh phúc hiển nhiên, đương thời hay là trong cảnh xương tàn cốt rũ v́ đă được hồng ân của Chí Tôn ban cho về già, tức là dưới thế nầy sẽ được an nhàn cả tâm thần và h́nh thể. Mong sao cả thảy được mau phục sinh mới trong Thánh chất của Chí Tôn đó vậy.


 

03- ĐỨC HỘ PHÁP HUẤN TỪ SAU BỮA TIỆC ĐẦU XUÂN.

 

Tại Hiệp Thiên Đài, 21 giờ đêm mồng 3 tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 12-02-1948)

 

Năm mới, không có đặt diễn văn chi. Hôm nay tôi dùng những tiếng thường để nói việc đời.

Theo thế thường người ta nói: "Thực nhơn tài phải cứu nhơn tai" (Phàm ăn của người phải giúp cho người). Tuy vận tôi nghèo, nhưng tôi làm cái tiệc nầy rất đặc biệt, lại nữa tôi mời quư Ngài cũng đặc biệt, toàn là chư vị yếu nhơn cầm quyền Chánh Trị Đạo, không ai là ở ngoài. Tôi không nói dối rằng nhà tôi đơn chiếc, v́ nhà tôi là cả toàn cầu.

Quư Ngài hưởng lễ rồi, tôi xin nhờ quư Ngài một việc: V́ tôi có một ông Cha Thiêng Liêng là Thiên phụ, Ông cho tôi cái quyền bác ái là thương cả toàn cầu, và một ông Chúa là Thiên tử. Thiên phụ tôi th́ giao chèo chiếc thuyền Bát Nhă, Thiên tử giao đẩy xa thơ, từ Nam chí Bắc, từ Đông chí Tây. Anh em rất đông, nhưng người ngồi trên th́ nhiều, c̣n kẻ đẩy, chèo, th́ ít.

Năm rồi, các Ngài hảo tâm giúp sức cũng chèo, cũng đẩy năm nay cũng vậy, xin cũng giúp đẩy, giúp chèo cho đến nơi, đến chốn. Ấy là ơn trọng lắm vậy.

Xin quư Ngài giúp tôi cho trọn đạo.


 

04- QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN GIÁO.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 3 tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 12-02-1948)

 

Trong ba ngày xuân, Bần Đạo ước mong nước Cam Lộ của Chí Tôn chan rưới đặng rửa tâm hồn của mấy em, phục sinh trở lại.

Nay Bần Đạo xin thuyết minh quyền năng của nền Tôn giáo.

Cả chủng loại, loài người và vật loại, chúng ta quan sát ngoại thể thấy loài người và vạn vật phải ở chung hiệp cùng nhau, gọi là xă hội mới sống được. Chúng ta thấy trước mặt nhiều vật loại sống đặng như ong, kiến, cũng nhờ tổ chức xă hội, giống thú mà c̣n biết chung hiệp từ đoàn thể tức nhiên có tinh thần xă hội. Loài người cốt yếu sống cũng phải có xă hội. Lại nữa, nếu chúng ta t́m chơn lư của Phật giáo th́ thấy Chí Tôn đă phú thác cho loài người làm chúa vạn vật. Ngài để tinh thần của loài người cao trọng, tức nhiên cho người có khối linh vĩ đại, trọng hệ hơn, đủ phương thể làm tṛn trách vụ đối với vạn vật, tức Ngài định cho ta làm chủ xă hội vạn linh.

Làm trách vụ tức nhiên có tinh thần cảm xúc mà cảm xúc tức nhiên sanh t́nh. T́nh là luật thiên nhiên của Chí Tôn. T́nh phân ra hai vở chánh, nơi cơi phàm th́ có luật định giới hạn, chúng ta thấy tạo luật pháp xă hội, hiển nhiên nơi cửa Hư Linh cũng có đặc quyền, nên cũng phải có khuôn luật là Thiên điều. Có nhiều vị Phật cầm vững quyền thưởng phạt ấy, gọi là nhơn quả, vay trả, hễ nên th́ thưởng, c̣n hư phải thường, luật định như thế rất nên công b́nh chánh đáng.

V́ có khuôn khổ luật pháp do quyền Thiêng Liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng như hiền, lành cũng như ác,(*1) hỗn độn cả tinh thần của Chí Linh, tổng số không mực thước, không căn đề, không cội rễ.

Ấy vậy Đạo cốt yếu tạo khối t́nh ái tâm lư của loài người, biết ḿnh là phần tử của xă hội, phải làm điều ǵ cho xă hội nhờ.

Gia đ́nh là một phần nhỏ trong xă hội, nếu biết ǵn giữ thân thể, tôn trọng danh giá cha mẹ, anh em thảng có đứa du côn không kể gia pháp, làm rối loạn gia đ́nh th́ kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia đ́nh tông tổ. Sợ e gia đ́nh nào mực thước, thảng có điều vô phúc ấy sẽ xử đứa làm nhục đó, h́nh phạt nặng nề hơn kẻ tha nhơn.

Càn khôn là đại gia đ́nh, cửa Đạo cũng vậy, xă hội cũng vậy, là một gia đ́nh có cha mẹ, bà con, như một tông tộc vậy.

Lớn hơn gia đ́nh là một quốc gia, là một gia đ́nh lớn, gồm cả các gia đ́nh tổng hợp lại, chiều theo một khuôn luật do quyền năng của Đạo giáo tức Đại gia đ́nh.

Ta lần lượt đi đến toàn nhơn loại hiệp lại thành Đại gia đ́nh.

Con người sanh ra phải biết trách vụ của ḿnh, trong tiểu gia đ́nh hay đại gia đ́nh cũng vậy. Người ở gia đ́nh chỉ xưng ḿnh là con, v́ cớ Jésus Christ chỉ xưng ḿnh là con của Người (le fils de l'homme).

Ôi! Chỉ làm người mà được thành nhơn th́ hiểu giá trị của nó thế nào? Văn minh Nho giáo hiểu giá trị làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được: "Vi nhơn nan, vi nhơn nan" (làm người khó, làm người khó). Tố tố vi nhơn nan (làm người rất nên là khó).

Mong làm người cho xứng đáng là người trong gia đ́nh là khó khăn lắm, mà hễ làm người để d́u đỡ được gia đ́nh, tức là chúa gia đ́nh đó; ḿnh là người mà nâng đỡ được quốc vận, là chúa của quốc gia. Giờ ta thử hỏi: Một nền tôn giáo đem tâm lư loài người hiệp một lại là một điều đứng trên cái mức đại gia đ́nh đó. Làm người chủ xứng đáng của gia đ́nh đă là khó, làm người chủ xứng đáng của quốc gia lại càng khó, rồi làm người chủ xứng đáng của một nền tôn giáo không phải dễ. Hễ làm chủ được xứng đáng, th́ đối với nhơn quả, ta chỉ có nhơn mà không c̣n quả nữa. Người đă đem thân nầy ra làm chúa gia đ́nh, không c̣n là ḿnh nữa mà là bậc tiền bối; người đáng là người chủ của một nước là bực Thánh nhơn, người đáng là người chủ một tôn giáo ấy là vị Phật.

Ấy vậy, chúng ta muốn quan sát một tôn giáo nào được gọi là chánh giáo, th́ tôn giáo đó phải đủ yếu điểm tạo nên người chủ của nó đặng d́u đỡ các phần tử của Đạo ấy, đủ hạnh kiểm, đủ quyền năng. Phải cao thượng hơn sự thường t́nh, đi cho vững trên con đường hằng sống mới xứng đáng là chủ của Đại gia đ́nh Càn Khôn Vơ Trụ. Cả phương pháp không mực thước quyền hành để đạt đến địa vị chúa một tôn giáo th́ không phải chánh đạo. Ta đă thấy ǵ? Đạo Cao Đài có không? Ta suy xét coi: Có hẳn. Nếu con đường ấy, kẻ nào cố gắng th́ nên người làm chúa nền tôn giáo của Chí Tôn đă tạo sẵn, có mực thước, chuẩn thằng, phép tắc, để cho người ấy lập nên địa vị.

 

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 5: V́ có khuôn khổ luật pháp do quyền thiêng liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng như hiền, lành cũng như ác,...
Nguyên bản chánh in là: V́ có khuôn khổ luật pháp do quyền thiêng liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng ra hiền, lành cũng như ác,...
Chúng tôi mạn phép tŕnh bày như trên cho rơ nghĩa hơn.


 

05- QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN GIÁO. (tiếp theo)

 

Tại Đền Thánh, ngày 4 tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 13-02-1948)

 

Đêm hôm qua bị đèn tắt, nên chưa kết luận thể pháp. Nay Bần Đạo thuyết hơi dài một chút, xin cả thảy có mơi chân đừng phiền.

Đêm hôm qua, Bần Đạo đă d́u dắt các bạn, các em, các con, đi trên con đường tầm kiếm triết lư một nền Tôn giáo. Cả nhơn loại đều học làm chúa toàn cả gia đ́nh, được làm chủ một tiểu gia đ́nh, tức là một tông tộc là một vị hiền tại thế rồi, được làm chủ một đại gia đ́nh là Quốc gia, là một vị Thánh nhơn, được làm chủ một số Quốc gia hiệp lại như Hiệp Chúng Quốc tại Mỹ Châu như Washington,... chẳng hạn, là một vị Tiên, được làm chủ tối đại gia đ́nh tức nhiên làm chủ toàn thiên hạ, một nền tôn giáo là một vị Phật. Thể pháp của Đạo Cao Đài có khuôn khổ tập cho nhơn loại đi đến mục đích trong luật pháp của một nền chánh giáo.

Kế đây, Bần Đạo xin thuyết về bí pháp. Vả chăng Chí Tôn sanh chúng ta là người, cho chúng ta là người, cho chúng ta nhứt điểm linh quang tạo h́nh ảnh mỗi cá nhân. Ngài định phận sự tối trọng yếu của Ngài và cầu chúng ta thật hành cho ra thiệt tướng, nghĩa là: Làm thế nào đặng làm chúa vạn vật hữu vi cho Ngài. Hễ giao phận sự th́ buộc phải đảm nhiệm luật pháp cũng như sai ai thế h́nh ảnh cho ḿnh đến nơi nào, làm phận sự ǵ cần đưa chương tŕnh đặng thi thố ra sao cho thành đạt. Trong chương tŕnh có phương pháp hành vi, tức nhiên luật pháp của Đức Chí Tôn muốn buộc loài người đạt đức làm chúa vạn vật, định pháp vô h́nh tức nhiên định Thiên điều. Thiên điều là luật, c̣n pháp là quyền năng thưởng phạt nhơn quả. Không lạ ǵ, chúng ta thấy thế thường, con người không làm th́ không có nên hư, c̣n lănh trách vụ th́ nên hư đặng thất. Nên hư đặng thất của con người là một tấn tuồng nơi mặt thế. Ta nhận thấy mang thi hài, xác thịt, khối chơn linh chịu mờ ám, chỉ biết sống phải hiểu nghĩa vụ ḿnh, không phải sống đặng thừa hưởng, từ khi lọt ḷng mẹ th́ đă mang một mối nợ trần. Hễ mắc nợ th́ phải trả, mà trả cho ai? Khởi trả cho gia đ́nh trước. Ai là người làm trọn đạo gia đ́nh cũng khó lắm rồi, biết bao nhiêu trở lực, quả kiếp trước tái diễn lại, phải vay trả kiếp sau. Vay vay, trả trả, chẳng khác anh lái buôn kia trong đường đi. Muốn học làm chúa vạn vật cũng phải nhiều đường lối gay trở khó khăn.

Nếu Bần Đạo không vi chủ đặng đè nén con vật nầy, chỉ biết sống như con vật th́ đă quên hẳn ḿnh là ǵ, chẳng cần luận, đương nhiên nhơn loại lâm vào cảnh vay trả như anh lái buôn bị gian lận nhiều nên bán lỗ, ấy là nhơn. Đi chuyến khác nữa may mua rẻ bán được mắc th́ được lời. Lời lỗ là con buôn nơi trường đời. Ta thấy giờ nào chúng ta chẳng c̣n buôn lấy lời cho chúng ta hưởng mà là buôn cho Ông chủ hảng hưởng, ngày ấy chúng ta không sợ lỗ lời. Nhơn quả cũng thế, ngày giờ nào ta chẳng c̣n là ta mà c̣n trong gia tộc ta, ngày giờ nào ta chẳng c̣n là ta mà sống cho nhơn loại, ngày ấy là ngày giải thoát.

Ḿnh không vay hỏi ai, ḿnh chỉ cho mượn th́ ḿnh ắt giàu. Ngày giờ nào mà lời lỗ ḿnh không chịu trách nhiệm chỉ sống về nghề nghiệp của ḿnh mà thôi, th́ ḿnh ắt không ăn thua chi với ai tất cả. Đức Chí Tôn cũng thế, ngày giờ nào con cái của Ngài lấy hiếu đối với Ngài, nuôi nhơn loại về tinh thần và vật chất đó là cơ quan đạt đạo, chúng ta cho vay mà không thiếu, ấy là ta tự giải thoát.

Ta thử hỏi cả bí pháp của Đạo Cao Đài có như vậy chăng? Có chớ! Ḱa cái Cửu Trùng Thiên Chí Tôn đem phô bày tại mặt thế nầy đối với Cửu phẩm Thần, Tiên, không c̣n ai chối đặng, ai đi trọn th́ được giải thoát. Ngôi Giáo Tông môi giới hay thiệt? Chính Anh Cả chúng ta đă ngồi được. Ai làm được vậy chăng? Làm được chớ! Nếu có kẻ nói mắc lo gia đ́nh, không thể lo Đạo được là phi lư. Đạo là trường học đạt đại gia đ́nh, Đạo là trường thi lập vị, sao lại làm không được? Tại làm biếng học! Học đặng hành. Nên hư do tại ḿnh, không phải do Chí Tôn và cũng không phải tại Đạo. Tôn giáo nào không đạt được Cửu phẩm Thần, Tiên dưới thế nầy, th́ trên Cửu Thiên kia không hề đạt vị được. Ấy vậy, về mặt bí pháp Đạo Cao Đài là rơ ràng một nền chánh giáo của Chí Tôn vậy.


 

06- KHI VÔ ĐỀN THÁNH PHẢI BỎ HẾT PHÀM TÂM.

 

Tại Đền Thánh, đêm 29 tháng giêng năm Mậu Tư (1948)

 

Hôm nay, Qua lên giảng giải là do đêm trước Truyền Trạng Ngọ đă giảng trong khi lănh trách nhiệm thay quyền Tiếp Lễ Nhạc Quân, đứng trên ngó xuống thấy mấy em có cử chỉ do tâm lư không được chững chạc và đúng theo nghiêm luật của Hội Thánh. Nhưng đó là bề ngoài chẳng nói chi, trọng hệ hơn hết là cái huyền vi bí mật của Đền Thánh nầy, buộc ḷng Qua phải lên giảng.

Mấy em có biết tương lai nền Chơn giáo nầy của mấy em là tạo đại nghiệp gia đ́nh cho một sắc dân gọi là Tân Dân của Chí Tôn, để nơi mặt thế nầy, là Thần Thông Nhơn. Mấy em kiếm hiểu hai tiếng Thần Thông, dầu không thấu lư mà nghe nói tiếng ấy cũng hiểu sự quan hệ của nó ra sao.

Ấy vậy, muốn tạo một tinh thần tới Thần Thông cho sắc dân Tân Dân của Chí Tôn đem đến mặt địa cầu nầy, do trong mấy em hiện tượng ra mà mấy em không tầm cái giống Thần Thông th́ làm sao tạo Tân Dân ấy cho được. Cả huyền vi bí pháp của Chí Tôn để tạo Thần Thông Nhơn ấy, mắt mấy em nh́n thấy không biết h́nh ảnh th́ làm sao đạt thành được.

Mấy em sẽ làm Cha, làm Mẹ của đám Thần Thông Nhơn ấy mà không có hột giống làm sao tạo h́nh cho đặng. C̣n như Qua đây là Hộ Pháp khi lên Ngai đứng có mấy công chuyện mà quên trước quên sau, đó là buổi mới khai Đạo. C̣n mấy em dầu khó khăn đi nữa, nay Đạo đă 22 năm mà c̣n quên th́ không biết nói làm sao đặng.

Mấy em có thấy đâu khi vô Đền Thánh, đền nầy gọi là Đền Thánh, th́ thế nào mấy em phải hiểu. Qua đứng trên Ngai lấy hết tư tưởng của mấy em cái giọng của mấy em cầu kinh Qua ôm hết dâng lên cho Đức Chí Tôn, dâng đây, không phải là tiếng thường, ấy là cái thiên thiều, Ngài hưởng rồi, Ngài trả lại cho mấy em cái thiên tinh. Có như vậy th́ địa cầu nầy mới an tịnh, mới thái b́nh được. Mấy em ôi! Nếu cúng mà giọng đọc thô bỉ, không đồng một nhịp nhàng th́ mong ǵ cái thiều quang của Càn Khôn Vũ Trụ điềm tỉnh đặng an hưởng.

Qua đứng trên Ngai, Qua thấy trên Nê Hoàn Cung của mấy em, nếu định tâm, th́ có một hào quang xung lên đều đều, mọi người đều có cả hào quang đó, có một vị Phật ôm hết đem vào Bát Quái Đài, hiệp với đạo hào quang trong quả Càn Khôn đoạn đem trở ra bao trùm chỗ ngồi của mấy em, mà mấy em không thấy được, cho nên khi mấy em hầu lễ, nếu biết hưởng cái ơn Thiêng Liêng ban cho đó, th́ tinh thần được an tịnh, hạnh phúc biết bao, nếu biết thọ hưởng cái hồng ân đó, cũng như lúc mấy em đói rồi có ai liệng cho đồ ăn, mà không biết hưởng, th́ làm sao no đặng, tức phải đói.

Đáng lẽ khi bước vô Bửu Điện, đi ngang qua Hiệp Thiên Đài thấy toàn màu đỏ, màu đỏ thuộc về xác thịt, vậy đi qua rồi phải tịnh tâm. Qua không nói ai, v́ trước mỗi buổi đều tắm rửa, vô đó, dầu h́nh thể của mấy em có nhơ nhớp, thúi hôi, cùi đày mà cái tâm của mấy em trong sạch đó là tâm vô tội. Dầu kẻ nào tội t́nh ưu lự thế mấy mà bước vô Đền Thánh rồi, cũng phải tập tánh cho thanh khiết, bỏ cả những tư tưởng phàm tục, để tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng ứng. Mấy em đem cái h́nh xác vào Đền Thánh, nhưng là cái xác vô tội, đặng hiến cho Chí Tôn. Nếu không vậy, th́ có vào Đền Thánh, kẻ ngồi chỗ nầy, kẻ ngồi chỗ kia mà trong óc không niệm, th́ vô Đền Thánh có ích ǵ? Đi cúng, điều trọng yếu nhứt là tinh thần, cái huyền vi bí pháp tinh thần ở đấy là CỬU TRÙNG ĐÀI rồi BÁT QUÁI ĐÀI thuộc về Chơn Linh, ấy là linh tâm xuất hiện, nếu mấy em có cảm mới có ứng, mà nếu có ứng, th́ mấy em mới hưởng được, thảng không hưởng được là lỗi tại mấy em không trọn tâm thành kính.

Thỉnh thoảng rồi Qua sẽ giải bí pháp của Hộ Pháp đứng trên Ngai là ǵ? Mấy em không thấy cũng đáng trách. Vậy từ đây về sau, Qua chỉ xin mấy em một điều là hễ bước chân vô Đền Thánh, th́ phải bỏ hết cả phàm tâm, th́ hạnh phúc sẽ to lớn, bằng chẳng vậy, đừng đi cúng, v́ đến cúng, không những không hưởng được đặc ân, mà c̣n mang tội thêm mà chớ.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 29-01-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 09-03-1948).


 

07- LIÊN QUAN CON CÁI CHÍ TÔN VỚI NGÀI.

 

Tại Đền Thánh, đêm mồng 1 tháng 2 năm Mậu Tư (1948)

 

Bần Đạo hứa sẽ tiếp tục giảng về cái Ngai của Hộ Pháp và phận sự của Hộ Pháp phải làm ǵ, nhưng Bần Đạo tưởng cả thảy chưa cần biết, yếu trọng hơn hết là vấn đề liên quan của con cái Chí Tôn với Ngài.

Bần Đạo thấy cả con cái của Ngài, nghe tiếng gọi của Ngài mà đến, là v́ yêu ái Ngài, tâm linh biết cảm ứng, biết nh́n nhận Đấng tạo sanh linh quang là Cha, Cha kêu con đă là sự thương rồi, nên sự thương yêu của toàn thể tín đồ nam nữ cũng vậy đối với Chí Tôn vô hạn; Bần Đạo chán biết và xin thú thật rằng: Ngày nào về cơi hư linh, nếu vô ṭa phán xét Bát Quái Đài th́ Bần Đạo quả quyết làm chứng rằng t́nh thương của nhơn sanh đối với Chí Tôn rất nồng nàn. Nhưng có điều khuyết điểm nầy: Chớ chi con cái của Ngài đem t́nh ái ấy để cả thảy thương lẫn nhau, dùng t́nh thương đă đem hiến cho Chí Tôn có thể hiến chung cho nhau, đặng cùng hưởng tại mặt thế nầy. Trái lại: Không!

Điều khuyết điểm ấy quá lẽ buộc Bần Đạo phải minh triết cho cả thảy được rơ biết. Ước mong con cái của Chí Tôn biết thương yêu nhau nồng nàn hơn là thương Ngài nữa mới đặng.

Cả thảy đừng tưởng rằng: Ḿnh bước chân vào cửa Đạo là một sự t́nh cờ đa. Bần Đạo quả quyết rằng: Không phải là một sự t́nh cờ, và nếu Bần Đạo chứng chắc rằng toàn con cái của Ngài đều ở trong ḷng của Ngài, sanh ra đă có một t́nh yêu đối cùng nhau, từ trong vật loại dĩ chí nhơn thân chúng ta đă có liên quan mật thiết nồng nàn, khối t́nh ái vô biên vô hạn. Cả thảy nên biết điều ấy, Bần Đạo xin nói thật, ngày giờ nầy cho các chơn linh đến mặt thế đă từng chung chịu khổ năo cùng nhau, cả muôn kiếp sanh mới gặp gỡ nhau trong ḷng của Đức Chí Tôn đó chớ.

Trong 24 chuyến thuyền Bát Nhă, đem chơn linh đến mặt địa cầu, mấy bạn đă ngồi trong ấy, ngày nay Đức Chí Tôn đă đến, đến để làm tṛn một lời hứa của Ngài. C̣n chúng ta đă hứa với Ngài những ǵ? "Hứa: Các con v́ Thầy đầu kiếp đặng tạo tinh thần vật loại, độ cả hóa nhân và nguyên nhân qui hồi cựu vị. Các con v́ thương Thầy tạo h́nh ảnh của Đạo". Ngày nay là ngày giờ chót Thầy đến với mục đích và sở vọng của Thầy là hội hiệp các con lại làm một cùng Thầy.

Ôi! Nếu các bạn đă biết, từng chung chịu đau khổ cùng nhau cả vạn kiếp sanh. Nơi đây có kẻ đă làm cha, làm ông, làm chị, làm mẹ chung lẫn trong các kiếp tái sanh nơi mặt địa cầu nầy để tạo yêu thương trong toàn nhơn loại. Các bạn có biết điều ấy đâu, duy có thấy gần mà chẳng thấy xa, đương nhiên cùng máu thịt th́ thương nhau, biết đâu trong đám nầy có kẻ đă làm cha, mẹ, ông, bà ta, mà ta không thấy, không biết. T́nh cảm của chúng ta hễ khuất mắt rồi, th́ nhẹ giá trị quá lẽ. Bần Đạo là Hộ Pháp, nếu Bần Đạo nói điều chi mong đặng gạt gẫm nhơn sanh, ngày kia về Ngọc Hư Cung Bần Đạo chịu trách cứ đó.

Ôi! Kiếp sanh tại thế mang xác thịt, hỏi sống được mấy lát? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự chết sống của kiếp con người, mang thi hài bóng dáng nầy là giả. Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chỗ khác kia, sao không t́m cảnh thiệt là cảnh tồn tại, lại chạy theo bóng?

Ước ao cả thảy biết điều trọng hệ bí mật đó mà thương yêu lẫn nhau, thương lún thương càn đi, rồi ngày kia coi có lầm chăng? Bần Đạo quả quyết, ấn Hộ Pháp, Bần Đạo nắm trong tay, nói chẳng hề sai chạy. Bần Đạo mong ước cả thảy con cái của Chí Tôn, đừng tưởng mang thi hài nầy mà nam nữ phân biệt đa nghe. Biết đâu trong đám nữ nầy, có kẻ đă làm cha, làm anh của người nào đó. Giả cuộc đừng coi trọng hệ, cả thảy nên hiểu và từ đây noi theo lẽ thiệt, đừng mơ sự giả, đó là điều mơ vọng ước ao của Bần Đạo hơn hết.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 01-02-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 11-03-1948).


 

08- HỘ PHÁP HÀNH PHÁP MỖI KHI VÔ CÚNG ĐÀN.

 

Tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 2 năm Mậu Tư (dl. 24-03-1948)

 

Hôm nay Bần Đạo chẳng phải thuyết đạo, Bần Đạo chỉ nói chuyện mà thôi. Nói chuyện Hộ Pháp, mỗi phen vô cúng đàn làm việc chi, theo như lời Bần Đạo đă hứa.

Bần Đạo nói đây để cả thảy được biết điều ấy trọng hệ như thế nào, đặng giữ ǵn và giúp Bần Đạo mỗi phen hành pháp được dễ dàng một chút. Bần Đạo nói hôm nay, để đêm mai có nhiều th́ giờ giảng những điều thiết yếu hơn, trọng hệ hơn.

Mỗi phen nhập đàn, hễ trống chuông rồi, th́ tất cả đi vô, cả thảy đi vô thong thả, chỉ có Bần Đạo thật bối rối, bước lên ngai rồi, trụ pháp lại, vẽ bùa niệm chú. Câu chú mà khi thượng sớ, chúng ta thường nghe đọc "TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN". Thật sự th́ như vầy "TAM THIÊN THẾ GIÁI HỘ PHÁP GIÁNG LÂM". Từ trước đến giờ, các bậc tiền bối của chúng ta đă để như nói trên nên không thể sửa cải được, phải để y như vậy.

Khi bái đàn rồi cả thảy qú tụng kinh, c̣n Bần Đạo tịnh niệm, mỗi câu kinh mấy em đọc vẫn dễ, v́ thuộc mà đọc thôi, riêng Bần Đạo mỗi câu kinh phải mật niệm, tụ hết cả nghĩa lư của nó dâng lên Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng. Rồi c̣n điều nầy rắc rối hơn hết, hễ khi nào cả thảy tụng rồi bài kinh Chí Tôn hoặc kinh Tam Giáo, khi Bần Đạo thấy nín hết, buổi đó đem hết tinh thần trụ lại, dâng lời mặc niệm ấy vào Bát Quái Đài. Đến khi tất cả niệm ngũ nguyện cũng vậy, Bần Đạo định tâm, dồn cả đức tin biến thành một huệ quang chiếu diệu đem vào Bát Quái Đài rồi, đợi cho Bát Quái Đài trả lời khi ấy ở trong đó ánh sáng tủa ra, Bần Đạo cúi đầu niệm thế cho cả thảy.

C̣n dâng Tam Bửu, Bần Đạo hiểu cả nghĩa lư của nó đang khi dâng bông, cả thảy h́nh thể con cái của Chí Tôn tức là Thánh Thể của Ngài, trụ hết xác Thánh đó dâng cho Ngài đặng Ngài làm phương cứu thế. Đó là dâng bông.

Tới dâng rượu, cả thảy khi dứt câu kinh, nín lặng hết, Bần Đạo vận dụng cả trí năo tinh thần, đem đức tin của cả thảy dâng vào Bát Quái Đài.

Tới dâng trà, là dâng cả linh hồn cho Chí Tôn. Bần Đạo để cả tinh thần trụ lại, đem linh hồn của cả con cái Chí Tôn dâng cho Ngài.

Khi các người cầu nguyện, buổi cầu nguyện biết vậy th́ nguyện như vậy thôi, c̣n Bần Đạo phải trụ hết tinh thần định trở lại, đem cả những lời cầu nguyện ấy đặng dâng cho Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng.

Khi Chí Tôn truyền cho pháp ấy, Bần Đạo nghĩ rằng: Đó là chiếu theo cổ pháp của nhà Phật buổi trước, nhứt là Thiền Môn mỗi khi làm chay, thí của, cầu siêu, hay tuần tự chi đều rước một vị Ḥa Thượng trụ tŕ đến. Không ǵ khác hơn là bí pháp của Chí Tôn trụ thần, Bần Đạo dám chắc rằng không ai biết, họ tụng kinh như hát mà thôi, không ai để hết tinh thần vào câu kinh, nên mấy thầy chùa gơ mơ tụng kinh có ăn thua ǵ, trọng hệ là vị Ḥa Thượng trụ tŕ ngồi hành pháp, nhưng không hiểu họ có biết mà làm y theo đó hay không? Cái trọng hệ ấy, nếu ai làm cho y, th́ là trúng với bí pháp. Tiểu Đàn th́ vậy.

C̣n Đại Đàn lại c̣n rối cho Hộ Pháp hơn nữa, là có ba ấn: Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn, ấn ấy không phải do tay Hộ Pháp không? Khi đứng lên Ngai rồi bắt ấn Hộ Pháp, lấy cả tam bộ Thiêng Liêng tức là sanh khí mà ta thấy trước mắt tỏa ra cùng khắp. Rồi đến trụ thần lại bao trùm cả trái đất nầy như ṿng bao một trái cây ǵ vậy, để cái cuống lên trên, đem dâng cho Chí Tôn ngự. Kế dâng bông, bắt ấn Thượng Ngươn dưới đạp Ngưu Đẩu, tay đưa Gián Ma Xử lên hiệp với chữ Khí, đem khí ấy đưa ra cả càn khôn thế giới. Ấn Thượng Ngươn làm chủ chữ Khí, đem khí ấy hiệp hết cả Ngươn Khí đặng bao trùm vũ trụ.

Đến Trung Ngươn bắt ấn Hiệp Chưởng biến hóa, Gián Ma Xử để nằm ngang, đuôi bên Thế, cán bên Đạo, ư nghĩa Đạo cầm cán đặng trị Đời. Bắt ấn Hiệp Chưởng, cầm cả cơ pháp của vạn vật biến sanh đặng bảo tồn không cho tương tranh, tự diệt nhau.

Tới Hạ Ngươn, tay tả thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để dưới, rồi để Gián Ma Xử chúi xuống, trụ thần đem cả càn khôn hiệp cả vạn vật. Bắt ba ấn phải trụ thần, làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp. Cho nên ban sơ, buổi Chí Tôn mới giao cho Bần Đạo tại Từ Lâm Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, v́ không quen, không phải ḿnh làm thầy phù, thầy pháp ǵ ổng giao cho học măi làm không trúng. V́ cớ nên mới có quỉ lộng tại Từ Lâm Tự buổi nọ, các ấn khác của Hộ Pháp có linh hay không mà quỉ lộng? Ấy là Thiên Cơ khiến vậy. Chí Tôn mở Tam Thập Lục Động coi có phá nổi Ngài không? Có thể làm cho tiêu diệt nền Chánh Giáo không? Để cho chúng sanh thí nghiệm mà thay quyền năng vô tận của Ngài. Buổi nọ v́ thời gian ngắn ngủi, nên công việc chưa rành rẽ, v́ không đủ th́ giờ để chuyên luyện, hoặc cho là chưa trọng hệ cho lắm, nên có điều sơ lược. Đó là Thánh ư của Đức Chí Tôn muốn như vậy.

Trong một thời cúng, Bần Đạo đă căn dặn nhiều phen trọng hệ hơn hết, là khi dâng Tam Bửu, dầu cho tinh thần suốt buổi cúng có nhiều lúc lo ra đi nữa, đến khi dâng Tam Bửu, khuyên cả thảy định thần đặng mật niệm, dâng ba bửu trọng hệ cho Chí Tôn, tức là giúp sức Bần Đạo hành pháp dễ dàng một chút đó.


 

09- Ư NGHĨA ĐI HOÁN ĐÀN ( Cúng Đại Đàn).

 

Tại Đền Thánh, đêm rằm tháng 2 năm Mậu Tư (dl. 25-03-1948)
(LỄ THÁI THƯỢNG)

 

Nay Bần Đạo định giảng tiếp, nhưng v́ bị vụ hoán đàn mà không cho vô, nên Bần Đạo phải giảng nghĩa rơ v́ sao mà không cho vô ấy, vậy có đứng lâu mơi chân xin cả thảy đừng phiền nghe.

Không có một điều chi Chí Tôn để trong Pháp giới của Ngài trong cửa Đạo nầy mà không có nghĩa lư. Ít nữa ḿnh không biết th́ phải t́m cho biết, coi tại sao như thầy chùa chạy kim đàn vậy, t́m cho ra duyên cớ đặng hiểu biết bên trong pháp giới của Đức Chí Tôn là thế nào mà h́nh thể bên ngoài lại dị kỳ làm vậy. Không biết phải hỏi, cả thảy nên biết rằng, không một điều ǵ trong nền Tôn Giáo nầy mà vô nghĩa lư đa nghe.

Tại sao phải hoán đàn, nam, nữ chen nhau? Đó là bùa pháp luân thường chuyển. Tại sao Chí Tôn để bùa pháp luân thường chuyển tại thế này, đặng chi vậy? Hiện đă măn Hạ Ngươn tam chuyển, bắt đầu Thượng Ngươn tứ chuyển ta gọi là khai ngươn nên phải để cho pháp luân chuyển.

Ta đă biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mối đạt Đạo đặng.(*1) Cả thảy đều biết qua Cửu Trùng Đài nầy là Cửu Thiên Khai Hóa, c̣n cung trên kia là Cung Đạo, từ trước đến nay, mỗi người măi miết t́m Đạo mà Chí Tôn để giữa đó, trước mắt mà không biết. Đi chín từng Trời để cho phần hồn đi cho cùng tột cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật, tức là Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại Phật, chuyển luân như vậy, bí pháp gọi là đạt Đạo. Tại sao cả thảy không t́m hiểu, rồi không chịu vô hoán đàn, sợ mỏi chân, chờ trong nầy thiên hạ đi giáp rồi mới vô cúng mà thôi.

Cũng v́ bởi không hoán đàn là không đạt được thể pháp đó không đủ theo pháp giới của Chí Tôn, nên người cầm pháp có phận sự không cho vô tức là không cho làm loạn Đạo.

 

Phụ ghi:
(*1) Nơi đọan thứ 4: Ta đă biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mối đạt Đạo đặng...
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Ta đă biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mới đạt Đạo đặng...


 

10- ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN KHÔN VŨ TRỤ.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 9 tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 19-02-1948)
VÍA ĐỨC CHÍ TÔN

 

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư Đạo Hữu, mấy em, mấy con Nam, Nữ, một cái lễ đầu xuân là lễ Đức Chí Tôn. Ngày nay ta tính lại đă trót 23 năm Chí Tôn đến cùng con cái của Ngài, cái hạnh phúc của nhơn loại may duyên gặp hồi tận độ của Đức Chí Tôn đáng lẽ tinh thần loài người thoạt nghe thoạt thấy, tâm linh buộc phải xu hướng theo sau bước chân của Chí Tôn. Tại sao ta phải hỏi v́ cớ nào đă 23 năm mà nhơn loại chưa hưởng được hồng ân của Chí Tôn chan rưới nơi mặt thế này?

Bần Đạo đă thuyết mấy kỳ trước: Một nền Chánh giáo dầu bí pháp, dầu thể pháp phải có thiệt tướng như thế mới ra một nền Chánh giáo. Ngày nay là ngày Chí Tôn đến cùng ta, kỷ niệm nầy, bất tiêu bất diệt. Bần Đạo đă thuyết v́ cớ nào từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, nhơn loại vẫn khư khư tầm Đạo. Chúng ta chán thấy rằng, nhơn loại trên địa cầu nầy thay đổi nhiều lớp mà nay chúng ta c̣n tồn tại đây, theo Chơn pháp để lại tính ra đến nay là 3 lần 36 ngàn năm. Thành ra từ mặt địa cầu có nhơn loại đến giờ là 108.000 năm. Trong 108.000 năm biết bao nhiêu thay đổi, đáng lẽ nhơn loại đă quên Chí Tôn mà chớ, sao vẫn nhớ măi mà thôi, bởi chẳng nhớ Ngài chẳng đặng. Tại sao không nhớ Ngài không đặng? Nhơn loại đang đi t́m, khao khát cái danh từ, tên tuổi của Ngài. Các dân tộc đang t́m ṭi v́ biết nh́n Ngài là người chủ quyền tạo đoan Càn Khôn Thế Giới. Ai đă dạy họ, ai chỉ cho họ, ai buộc họ, mà họ biết chơn lư chỗ nào mà theo, một điều là người nào cũng vẫn t́m ṭi măi điều ấy mà thôi. Bần Đạo không nói riêng về loài người, dầu vật loại vô tri vô giác hay hữu tri hữu giác cũng vẫn t́m người măi măi.(*)

Ta thấy vật vô tri vô giác như đá, sắt là bất động vật, rơ ràng không âm thinh chỉ có sắc tướng ta thấy chắc trí giác đă thế nào, Bần Đạo xin hỏi đá t́m ai, kiếm ai mà cục nầy chồng chất lên cục kia, leo trên nhau mà thành ra ḥn núi? Đặng t́m kiếm khối sanh quang của nó. Vật hữu sanh, chúng ta thấy cây lúa mới cấy nó nằm nghiêng, sau khi sống nó đứng thẳng đầu lên. Hỏi nó t́m ai? T́m Đấng Tạo Đoan. Cây trong rừng hoặc trong vườn bị che khuất c̣n biết nghiêng ḿnh, nảy chồi đâm tược. Hỏi t́m ai? T́m Đấng Tạo Đoan.(*)

Ấy là vật vô tri vô giác, c̣n người tại sao bỏ không đặng, hễ không bỏ Đấng Tạo Đoan đặng th́ phải t́m ṭi măi, gọi là tầm Đạo. Đạo là cơ quan bí mật làm cho Trời Người hiệp một trong sự sống của Càn Khôn Vũ Trụ, nên con người vẫn đi t́m nguyên do sự sống ấy, xem thế tức là đi t́m Đạo đó.(*)

Chúng ta buổi mới sanh ra c̣n anh hài không đủ trí thức xét đoán, chúng ta đă thấy ǵ? Thấy trước mắt vạn vật hữu sanh, đó chẳng qua là những bạn đồng sanh với chúng ta mà thôi. Khi được năm ba tuổi rồi, cả vạn vật đối với sự sống của ta rất hữu t́nh như thế nào, ấy là mức đầu tiên làm cho tinh thần con người tự tỉnh. Quan niệm của vạn vật đối với con người rất nên mật thiết, dầu vật ấy hung tàn đối với con người, t́nh thân ái giao hảo vẫn liên quan mật thiết. Chúng ta thấy cọp beo, sấu, hùm, gấu làm cho ta sợ sệt sự hung dữ của nó có thể hại sanh mạng của ta được, nên mới kiêng sợ như vậy. Ngoài ra toàn vạn vật đều có t́nh hữu ái đối với ta "Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật". Ta thấy cả vạn vật ấy đối với ta rất có cảm t́nh, bởi lẽ đồng sanh, như đứa con nít con bướm đẹp đẽ th́ mê lắm, t́m bắt, đến khi gặp con ong chích th́ sợ sệt, mấy điều ấy làm cho con người tự tỉnh, đi t́m nguyên do của sự sống ấy, đó là khởi bước đầu sự tầm Đạo.

Lớn lên chút nữa, biết ái t́nh chung trong gia đ́nh hay xă hội, biết thân danh chung. Phận sự của người giữ Đạo là giữ sự đồng sống trong khuôn khổ xă hội, tức nhiên t́m mối đồng sanh của cơ tạo đoan ấy. Thân danh ta đối với xă hội nhơn quần, ta thấy xă hội đối với ta như thế nào và ta phải đối lại như thế nào? Thật sự là t́m phương thế đặng tôn sùng sự sống chung của nhau mà thôi. V́ sự sống của vạn vật, của loài người sản xuất do Đấng Tạo Đoan là Chí Tôn, nên chữ Đạo nó liên hệ mật thiết với loài người thế nào th́ nó liên hệ mật thiết với Chí Tôn dường ấy, nên Ngài mới đến đặng thức tỉnh chúng ta biết, hiểu. Ngài là chủ của sự sống, đến đem sự sống lại, trừ diệt cho tiêu tan ác nghiệt. Ngài đem đến sự sống để trước mắt nhơn loại, như nhắc nhở họ phải tôn sùng cái sống chung của nhau. Hễ tôn sùng, tức nhiên phải nh́n Đấng Tạo Đoan đă ban cho chúng ta mạng sống, cho ta nhứt điểm linh quang, mới biết phân biệt hiền với ác, chánh với tà, để làm biểu hiệu cho con người thức giấc mê, t́m hiểu chơn lư của sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống theo tinh thần của Thánh Hiền hay sống theo tánh hung bạo tàn ác của con vật. Cốt yếu đem cái sống Thánh Hiền ấy là cái sống của Chí Tôn ban cho, là vật báu để trong ḿnh, vật ấy quí hóa không phải hèn hạ.

Giờ đây Chí Tôn đến mặt thế nầy, đặng làm cho nhơn loại biết tôn trọng sự sống ấy trong khuôn khổ của Chí Tôn định, hiệp tâm lư trở lại làm một trong t́nh thân ái đại đồng. Chơn Pháp của Chí Tôn đem đến với chúng ta đă 23 năm nay là vậy, nếu chúng ta đă mang danh thể của Ngài, trước chúng ta chẳng tự ḿnh lập phương pháp làm kiểu mẫu cho thiên hạ nh́n Đạo Cao Đài là Chánh giáo, thế nào làm khuôn mẫu cho cả toàn tâm lư loài người đồ theo th́ chúng ta thất hiếu cùng Chí Tôn lắm vậy.

 

Phụ ghi:
Cuối những đoạn có dấu (*): Để cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.


 

11- THỂ CHẤT VÀ TÁNH ĐỨC CÁC HẠNG KHÁCH TRẦN.

 

Tại Đền Thánh, đêm rằm tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 24-02-1948)

 

Hôm nay, Bần Đạo giảng về các hạng khách trần thể chất và tánh đức của họ, cốt yếu để d́u dắt cả thảy quan sát toàn thể Đạo.

Ấy là phương hay để chúng ta có thể quan sát được mỗi hạng khách trần, trọng hệ nhứt là Thánh Thể của Đức Chí Tôn tức nhiên là Hội Thánh. Vả chăng, chúng sanh nhứt là nhơn loại mỗi mỗi đều có đẳng cấp Thiêng Liêng tùy theo sự tiến hóa của chơn linh của họ, dầu tánh chất hay h́nh thể cũng tùy theo tiến hóa của chơn linh mà có riêng đặc tánh, riêng về h́nh thể của họ, chúng ta ngó thấy phương pháp của cổ nhân xem tướng người, đoán tánh chất, số mạng, cũng là nương theo đó.

Các hạng khách trần, Bần Đạo duy nói về đẳng cấp và tấn hóa, nếu dám quả quyết, nói hẳn rằng: Mặt địa cầu nầy có 2.700 triệu người mà buổi nầy khuyết điểm bao nhiêu không biết, số ấy là trong thời thái b́nh. Trong 2.700 triệu nhơn sanh tức có 2.700 triệu tánh đức, chúng ta không thể ǵ đoán xét được, nhưng chúng ta có thể chia khách trần ra làm nhiều hạng:

Một hạng trước là hạng trái chủ, nghĩa là hạng thiếu nợ, hạng thiếu nợ là ǵ? Là những người gây ra nhơn quả đă nhiều. Luật nhơn quả để họ vô hàng cùng khổ của các chơn linh.

Hạng thứ nh́ là hạng tác trái, nghĩa là người đă cho vay.

Hạng thứ ba là hạng du học, là các chơn linh đến mặt địa cầu t́m phương pháp đặng học hỏi, v́ họ thiếu thốn, đến đặng thâu đoạt cái phần thiếu kia cho hay biết nhiều thêm đặng tấn hóa về chơn linh.

Hạng thứ tư là hạng ta bà du hí, du thực đến chơi rồi về, mà cái hạng ấy ít lắm, nếu có đi nữa th́ phần nhiều chết yểu hết.

C̣n một hạng nữa là hạng Thiên mạng, hạng Thiên mạng là hạng chơn linh cao cấp tức nhiên đă đạt phẩm vị cao trọng, vâng mạng đến thi hành lịnh của Ngọc Hư Cung hay của Lôi Âm Tự.

Bây giờ Bần Đạo mới chỉ rơ hạng trái chủ là hạng thiếu nợ. Bần Đạo quả quyết rằng, nếu ngó thấy họ ta đoán được ngay. Cái thói nghèo hèn cùng khổ dầu đến đâu cũng ra nghèo hèn, rán làm sang bao nhiêu cũng lộ cái nghèo hèn ấy, v́ tánh đức họ hiện ra h́nh trạng xấu xa cho đến cách ăn mặc cũng vậy; họ sợ thiếu nợ nhưng hại thay họ đă lo đêm lo ngày, chạy tảo chạy tần, lo sống đủ mọi phương diện, nhưng chẳng phút nào họ được an hưởng tinh thần và tưởng tượng rằng ḿnh có hạnh phúc. Có khi người trái chủ đó ấy đầu kiếp một lượt th́ họ có phương thế làm đặng trả, là may duyên cho họ lắm; nếu rủi người chủ trái không đến th́ họ phải đầu kiếp măi t́m cho đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ đặng trả nợ, ấy là một phương pháp mà các chơn linh hăi hùng sợ sệt hơn hết. Tánh đức của họ là thường lo cho ḿnh được lợi mà thôi, nhưng không biết chừng nào đủ, đến đỗi trong ư muốn làm có của cho lung, cho nhiều để dành ngừa đó đặng có phương thế trả nợ, sợ một điều là buổi muốn trả mà không trả nổi. Tâm linh họ giục thúc như vậy. Họ hà tiện lắm, nhiều khi gặp được t́nh liên hữu với chơn linh nào mà họ gọi là chủ trái đến, lạ lùng thay, đối với cả toàn thiên hạ không thương yêu ai, mà nếu họ gặp người chủ trái ấy giục họ thương yêu, kính mến, ch́u chuộng, bao nhiêu của cũng đem dưng hết cho người ấy. Có nhiều khi không có của họ đem cả thân sanh họ đặng đền trả nữa. Hạng thiếu nợ có tánh đức đặc biệt nhỏ nhen, chắt mót, không tưởng đến ai khác hơn ḿnh, duy người chủ trái đến th́ toàn cả cơ nghiệp đều để lại cho người đó, dầu muốn dầu không, hay là không hay biết cũng do tay người đó phá hoại hết sự nghiệp. Họ phát hiện ra có tánh chất buồn bực quạu quọ, không yên tâm, cứ lo lắng bậy bạ nhứt là h́nh ảnh của họ cùng khổ, bịnh hoạn luôn và thường chịu phận đê hèn. Đó là hạng có quả kiếp.

C̣n hạng chủ nợ có tánh cách đặc biệt là không biết lo ǵ hết, lơ lơ lửng lửng, ngày chí tối không biết đợi ai trả nợ, mà chắc ḿnh có món nợ chúng sẽ trả, không lo ǵ cho họ cả, thả ĺnh b́nh du hí du thực, không biết ǵ ráo cứ ngơ ngơ ngửng ngửng, không động tới ai, mà cũng không làm nên ǵ cho ai; mà khi nào chúng ta thuyết đạo với họ th́ họ biết xu hướng, chịu nghe tưởng cái huyền linh nầy sẽ giúp ḿnh đắc lợi ǵ. Họ đi chùa, đi miễu cốt cầu danh, nghe nơi nào linh hiển, đem nhang đèn tới cầu tài cầu lợi cho ḿnh. H́nh ảnh của họ, gương mặt bơ bơ mà lúc nào cũng tự tôn tự đại, ḿnh là chủ nợ dầu nợ nhiều hay nợ ít cũng là nhà giàu rồi, và đặc sắc điều nầy là không sợ hao tài. Tánh chất sợ tội, sợ quả báo mà không biết trọng ḿnh, thoạt nghe đó, tin tưởng đó, nhưng không phải tin tưởng đạo đức mà chỉ tin nơi huyền linh đặng cầu khẩn mà thôi lại có tánh chất ngớ ngẩn, trong ḿnh không có tiền th́ thôi, nếu có tiền mà ai nói vừa bụng th́ lại móc đưa ra hết, có khi đưa rồi lại mắng người ta, đưa chẳng phải v́ thiệt tâm mà đưa. Tánh chất của người chủ trái là vậy đó.

Bây giờ nói đến hạng du học, hạng du học b́nh thường cái ǵ cũng muốn biết, ham đọc sách vở kinh luật nhưng chỉ đọc qua loa rồi bỏ, ưa kiếm hiểu, ưa tọc mạch hơn ai hết, cái ǵ cũng muốn hiểu, cái ǵ cũng muốn biết, có khi nào họ mơ màng th́ họ cũng muốn bỏ. Hạng du học th́ nhiều mà lạ lùng thay, phần nhiều không tín ngưỡng, học cao đến đâu nếu đem đạo đức tinh thần mà nói, họ không biết ǵ hết, cứ cái chơn lư họ t́m măi mà thôi, chính ḿnh họ, họ cũng chẳng biết họ là ai, nhưng cũng là hạng tự tôn tự đại lắm, họ quyết đoán trong óc họ rằng không ai hơn họ được, cho là ḿnh khôn hơn thiên hạ nên làm cao cách hơn ai. Gương mặt lúc nào đi cũng ngước lên người ta gọi là mấy cậu "trịch bồ lương" mà thứ đó lại nhiều hơn hết.

Hạng ta bà, nếu có th́ chúng ta thấy liền, không động tới ai, không nói tới ai, cái sống, cái chết của họ cũng không cần biết, họ thường ở theo các chùa hoặc lên núi, một cơi một ḿnh, chịu thanh tịnh mà thôi, c̣n đi chơi t́m lên non núi. Ta thấy trong các chùa chiền, họ bơ vơ dộng chuông, gơ mơ rồi nam mô lên, nam mô xuống. Hạng ta bà du hí nầy sống trên cơi trần nếu không vừa bụng th́ thối lui về tức là chết.

Bây giờ các bạn muốn nghe hơn hết là hạng Thiên mạng. Hạng Thiên mạng, là hạng người không biết tầm lấy cho ḿnh, chỉ lấy của ḿnh lo cho thiên hạ, không biết tôn trọng h́nh hài của ḿnh, chỉ tôn trọng thiên hạ, bởi v́ hạng Thiên mạng cốt yếu t́m cả năng lực chỉ đạo cho thiên hạ làm môi giới tinh thần, ấy là một phương pháp giải cứu cho đời và bảo trọng nuôi nấng thiên hạ đó. Tánh chất như Lục Tổ bất động, bất trần, bất cấu, bất nhiễm. Có nhiều khi họ đến mà chưa có phận sự th́ họ ngơ ngơ ngửng ngửng như khùng như điên. Ấy là khi chưa đắc thế, thiên hạ kêu là ba trợn ba nháng đó; một khi mà họ đắc thế rồi, quyết cứu độ thiên hạ thay thế cho Thiêng Liêng, vâng mạng lịnh Đức Chí Tôn đến làm bạn với người đặng truyền Đạo, thâu con cái của Chí Tôn về một mối. Phần đó ta có thể xem xét được trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn.

Mấy em nếu có gặp người khùng khùng điên điên phải quyết đoán là họ c̣n đợi thời và họ chưa tới thời đó mà thôi.


 

12- VIỆT NAM ĐƯỢC ĐỘC LẬP TRONG LIÊN HIỆP PHÁP.

 

Tại Đền Thánh, đêm 26 tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 06-03-1948)

 

Hôm nay có tin lành nên Bần Đạo lên giảng giải cho toàn Đạo được hay biết.

Mới đây có tin vô tuyến điện cho hay rằng: Cựu Hoàng Đế Bảo Đại đă đem cho nước ta được độc lập và thống nhứt, v́ nước Pháp có tuyên bố cho cả toàn cầu hay rằng đă chấp thuận rồi, duy c̣n kư kết bản hiệp ước với Pháp nữa là xong. Độc lập trong Liên Hiệp Pháp có nghĩa là văn hóa đă truyền bá các nơi, nơi nào có người Pháp. Trên địa cầu nầy người Pháp có nhiều thuộc địa, ngoài ra văn hóa Pháp cũng đă có ảnh hưởng đến các nước không phải là thuộc địa Pháp. Vậy, các nước nào không liên quan đến nước Pháp cũng có thể liên hiệp Pháp được. Liên Hiệp Pháp là hiệp các quốc gia lại cho cường liệt đặng bảo trọng cho các quốc gia chung nhau, bởi vậy nên trong Liên Hiệp Pháp, mỗi nước đều được tự chủ b́nh đẳng có quyền hạn như nhau, mặc dầu nước Pháp đă đề xướng, nhưng Pháp cũng chỉ là phần tử trong đó. Thật sự như vậy.

Bần Đạo nói đây cốt yếu để vào tâm năo cả con cái của Chí Tôn. Bần Đạo sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại được về, quyết đoán đem cựu Hoàng Đế Bảo Đại về xứ đặng thương thuyết tới độc lập cho nước nhà. Không phải hôm nay là việc t́nh cờ mà quả quyết đâu. Bần Đạo xin nói rằng những hành tàng mà ngày nay kết liễu do Bần Đạo đă biết trước từ năm 1927.

Bần Đạo cốt yếu nhắc cho con cái Đức Chí Tôn để trong trí rằng: "Không giờ phút nào Chí Tôn nói ǵ hứa ǵ với con cái của Ngài mà thất tín, thất hứa, thế nào cũng kết liễu mà thôi".

Con cái của Ngài nếu đủ khôn ngoan chịu khó ôn lại Thánh giáo của Ngài từ trước xem lại từ trương, từ lời Thánh huấn th́ hiểu ngay rằng không hề sai suyển một mảy may nào cả.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
Ngày âl. 26-01-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 06-03-1948) nguyên bản chánh in là: 26-01-Mậu Tư (dl. 05-03-1948).


 

13- ĐỂ CẢ ĐỨC TIN NƠI PHẬT MẪU.

 

Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ ngày rằm tháng 2 năm Mậu Tư (1948)

 

Chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, nên chúng ta tin chắc rằng Đức Phật Mẫu là Mẹ Sanh của chúng ta và cả vạn vật, nếu chúng ta tin và biết chắc như vậy th́ chúng ta phải để cả đức tin nơi Người, theo ư Bần Đạo tưởng cái ǵ về xác thịt thi hài nầy đều do Phật Mẫu đào tạo cả.

Đức Đại Từ Phụ duy làm cha của chơn linh chúng ta mà thôi, như cha mẹ phàm nầy, ông cha duy có nhứt điểm tinh c̣n huyết khí đều do bà mẹ đào tạo mà có, Đức Chí Tôn duy cho nhứt điểm linh, c̣n tạo nên trí năo và xác thịt của ta ra h́nh tướng là do tay của Phật Mẫu, hai cái quyền ấy rất cao trọng, hễ khôn ngoan muốn cầu xin cho đặng siêu thoát linh hồn, không ai hơn là Chí Tôn, c̣n về phần xác thịt nếu đau đớn khổ sở, mỗi mỗi cái đều xin Mẹ th́ chắc hơn hết.

Có nhiều điều ta đến xin Mẹ th́ Mẹ cho, chớ c̣n xin Cha th́ không được, phải vậy không? Nhứt là phái nữ, tâm hồn thường phải nương theo Phật Mẫu một cách mạnh mẽ hơn nữa, hoặc sanh con cũng được mạnh giỏi hoặc chính thân thể ḿnh không được cường tráng, hoặc đức tin c̣n yếu ớt sao không đến xin Mẹ, chỉ có Mẹ mới đủ quyền năng ban ơn ấy cho; c̣n như mấy em nhỏ, đă có vợ chồng th́ nên đến phụng sự Đức Mẹ mà cầu xin cho sanh đặng con tốt, cho Đấng nào đến nơi cửa của ḿnh sẽ là một chơn linh cao siêu, đó là biết khôn đó chớ, nếu chúng ta quả quyết có điều ấy th́ tự nhiên sẽ có như vậy.

Bần Đạo vẫn thấy nữ phái c̣n lạnh nhạt điều ấy lắm.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 15-02-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 25-03-1948).


 

14- THIÊN CUNG CỦA MỖI CON CÁI ĐỨC CHÍ TÔN.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm 19 tháng 2 năm Mậu Tư (dl. 29-03-1948)

 

Ngày hôm nay, Bần Đạo giảng về Thiên Cung của mỗi con cái của Đức Chí Tôn. Thiên Cung ấy, Chí Tôn có nói rằng: "Gia tài của các con, Thầy đă sắm sẵn". Gia tài ấy tức là Thiên Cung vậy.

Bần Đạo nhớ lại buổi nọ, Đức Chí Tôn biểu Chư Đại Thiên Phong, nhứt là những môn đệ đầu tiên của Ngài bên Cửu Trùng Đài, nên ta kể những vị ấy như là Thánh Tông Đồ của Đạo Cao Đài vậy: như là Trung, Trang, Tương, Thơ, Nương, Ca đó là những vị đến lúc ban sơ khởi thể của nền Đạo. Chí Tôn biểu: Các con phải lập họ hàng của ḿnh, tức là biểu lập Thiên Cung tại thế. Thảm thay! Hồng ân ấy, Chí Tôn liệng trong tay mà không biết nắm, tức nhiên họ làm mất đạo nghiệp của họ vậy.

Thiên Cung của chúng ta mà Đại Từ Phụ gọi gia tài dành để cho chúng ta, trừ ra đứa nào chê bỏ, Thầy mới đem cho đứa khác, Thiên Cung ấy là ǵ? Là các nguyên căn của Đức Chí Tôn, là cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ. Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nói rằng: Đức Chí Tôn buổi nọ có Thiên Cung riêng, Ngài dứt cả toàn Thiên Cung đó đến một chỗ chẳng có vật chi, rồi Ngài lấy dương quang đặng Ngài biến tướng ra và ban cho mỗi con vật một điểm linh tính tiếng Phạn gọi là Monade, c̣n ta gọi là nhứt điểm linh, điểm linh ấy tấn hóa vô biên vô giới, đi từ vật chất đến Phật vị, th́ trong con người đi biết bao nhiêu kiếp sống liên quan mật thiết cùng nhau, do mỗi kiếp sống để tạo thành một gia tộc. Chúng ta sanh ở thế kỷ nầy có ông, bà, cha, mẹ, anh, em, bạn tác, vợ chồng, con cái, cả các cơ nghiệp hữu h́nh của chúng ta tạo tại thế nầy, sẽ trở nên cơ nghiệp nơi cảnh vô vi kia, đặng làm Thiên Cung của chúng ta. Vậy Thiên Cung là ǵ? Nếu chúng ta gọi là gia tộc vô h́nh th́ phải gọi là xă hội, do đại nghiệp căn bản của chúng ta lập thành. Nếu chúng ta tưởng tượng trở lộn lại do lời của Đức Chưởng Đạo nói, th́ Đức Chí Tôn cũng vô một khuôn luật ấy, nhưng Ngài đạt Pháp, nắm cả bí mật vô biên đặng tạo càn khôn vũ trụ riêng, chẳng khác như ta đă thấy tấn tuồng hữu vi nơi mặt thế này, cũng làm con, làm cha, mà ta thấy cha ta tạo nghiệp thế nào, th́ ta cũng bắt chước như thế ấy. H́nh trạng Đức Chí Tôn đă làm th́ ta sẽ làm theo, hay là ta đă làm rồi nơi cảnh vô h́nh, Đức Chí Tôn đă dành để cho ta mà ta chưa hề biết như vậy, ta chỉ biết giờ nầy mà thôi, đến khi bỏ xác thú rồi, trở lại cảnh vô h́nh, mới biết ta có một đại nghiệp.

Bởi vậy cho nên buổi sanh tiền trong kiếp sống của ta đây: Ăn để sống tranh giành đặng nuôi con thú, tức là thú h́nh của ta mà quên lảng cả đại nghiệp. Không có thảm trạng nào hơn là ta quên ḿnh hiểm nguy, nên Chí Tôn rất thảm khổ thấy ta ch́m đắm trong trường đời. Ta thử tưởng tượng như ta làm cha mẹ đương giữ đại nghiệp cho con, phần hương hỏa đó rất vĩ đại, trong thời buổi c̣n niên thiếu cho nó đi ra ngoại quốc du học rồi lúc ở ngoại quốc nó không đủ phương sanh sống, cái gia nghiệp ấy nó chưa được hưởng mà không ai giúp đỡ tự nó t́m kế làm thuê làm mướn với tài hay mà sống. Nếu nó sống được với nghề hay nghiệp giỏi, với cái thiệt tài của nó th́ không nói ǵ, ngặt một nỗi nó không sống được theo phương pháp quân tử, nó phải hạ ḿnh xuống đi ăn trộm ăn cướp bạo tàn, điếm đàng, lường dối, làm đủ tội lỗi với phương sống đê hèn đó của đứa tiểu nhơn, th́ ta thử hỏi ông cha hay bà mẹ cầm cái đại nghiệp ấy, sẽ đau đớn thương tâm như thế nào chớ?

Thật ra Đức Chí Tôn cũng dường đó, một đám nhơn sanh như chúng ta đây, Ông đă nói: Của mỗi đứa con Ông c̣n giữ một đại nghiệp, đại nghiệp ấy không phải của Ông cho, mà là của tự ḿnh chúng ta tạo dựng, nhưng chúng ta lại nỡ quên phứt nó đi, để cho thân thể ra hèn tiện, khổ năo, truân chuyên, mà cái đại nghiệp kia ta lại không thể bảo trọng được. Nếu đương đầu với mạng sống mà ta không tự tỉnh, kiếm phương pháp sống cho chí thành, rủi t́m cái sống theo quỉ pháp, thử hỏi Đức Chí Tôn sẽ đau đớn như thế nào nữa? Thầy đă nói: "Gia tài của các con Thầy không bao giờ lấy cho kẻ khác, kỳ dư kẻ nào chê bỏ". Nếu chúng ta thất nghiệp cả của cải phụ ấm do nơi ta đào tạo ấy mà ta trở bước hưởng lại không được là tại nơi ta từ chối, tự ta quên ḿnh mà từ bỏ cái đại nghiệp ấy. Ta sống một trăm tuổi có nghĩa ǵ đâu? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, th́ dường như người quá cố nhắc nhở ta một điều ǵ? Người chết ấy nói với ta rằng: "Tôi đi đây là đến cảnh thiệt, c̣n quí ngài ở lại đó là cảnh giả đa nghe!". Phải sáng suốt đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ nghiệp thiêng liêng, chớ đời sống phàm gian là một khổ hải đa nghe!

Nhơn loại bao giờ mới tỉnh cơn mơ mộng tàn ác mà t́m cho được cái sống Thánh đức cao siêu? V́ cớ cho nên mỗi đứa chúng ta, dầu lao khổ, truân chuyên, dầu nhiều phen bị khảo đảo khổ hạnh, mà dường như tinh thần ta thấy khoái lạc hơn nữa, là tại sao vậy? Tại ta biết rằng sự khảo đảo h́nh xác nầy không phương ǵ mà động chạm đến phạm vi đại nghiệp của ta kia đặng, bất quá là bóng dáng mà thôi, mà hễ không động đến được th́ ta biết rằng ta có thể bảo thủ được, không sợ mất của thiêng liêng ta đă sẵn có.

Nếu cả mấy em biết nghe theo chơn lư vô cùng vô tận của thiêng liêng hằng sống ấy, bảo trọng được cái cảnh thiệt tướng ấy th́ hay hơn là trọng cái sống của thế t́nh mơ mộng. Mấy em chỉ nên sợ một người mà thôi, ngoài ra dưới thế gian nầy không c̣n sợ ai hết. Kẻ nào có quyền thế th́ chỉ có giết chết thân ta là hết chuyện. C̣n các em, các con, phải sợ người mà chẳng những có thể giết thi hài của mấy em, mấy con, mà c̣n tận đọa tam đồ chi khổ, lại c̣n truất cả đại nghiệp của mấy em và mấy con nữa. Người ấy là Đại Từ Phụ vậy.


 

15- NHIỀU KẺ ĐƯỢC GỌI MÀ ÍT NGƯỜI ĐẾN.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm 21 tháng 2 năm Mậu Tư (dl. 31-03-1948)

 

Nói về chữ hiếu thật là quá rộng răi bao la, nên Nho giáo nói không hết được. Ví như có câu rằng: Quạt nồng ấp lạnh, nghĩa là khi cha mẹ nóng nực th́ quạt cho mát, khi cha mẹ lạnh th́ đắp cho ấm, đó là câu nói để tỏ tâm hiếu của con cái theo thế thường t́nh nhỏ mọn mà thôi, chớ đối với Phật Mẫu không có một điều ǵ ta làm đặng đền công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ mà gọi là hiếu, bởi ḿnh không phương thế trả cái hiếu ấy đặng bao giờ. V́ vậy mà sách Nho tả không hết được.

Ấy vậy, có hiếu tức là phụng sự cho cha mẹ đủ mọi phương diện theo hoàn cảnh của ḿnh. Làm con mà muốn nói ḿnh có hiếu mà Ổng mặc kệ Ổng, ḿnh mặc kệ ḿnh, có khi cả đôi tháng hoặc suốt năm không thăm viếng, đợi tin chết đặng về để tang, bằng không chết th́ thôi, Ông Bà sống tự họ, ḿnh sống tự ḿnh.

Rủi nghe ai nói: Ông Cha bị cảm nặng, bị lạnh rét sao chú nó hoặc cô nó không về thăm th́ lại nói rằng: "Tôi cũng lạnh gần chết tôi đây, nhà tôi ở xa, ổng lạnh ổng ở nhà, tôi đi đường xa đây tôi c̣n cảm nặng đau hơn ổng nữa" vậy. Đối với cha mẹ ḿnh phải báo hiếu trọn cả kiếp sanh cũng chưa vừa, càng khổ năo, khó khăn chừng nào th́ tâm hiếu ấy mới quí, mới trọng.

Đối với Chí Tôn cũng thế. Đêm hôm qua đi cúng chỉ có một ít người thôi, đó là tâm đạo theo Trời mưa nắng! Lại đổ thừa đi mưa sợ cảm sổ mũi nhức đầu. Tội nghiệp Chí Tôn rủi có lạnh không ai đến cho mà chớ, mà Người chắc không lạnh nên không cầu lụy chi ḿnh, chỉ ḿnh không hưởng ơn riêng, sợ buổi trút hồn là khổ năo.

Trong Thánh Giáo Gia Tô có câu chuyện như thế nầy: Đức Chúa Jésus Christ nói: "Nhiều kẻ được kêu mà ít người đến" (Il y a beaucoup d'appelés mais peu de venus) ư nói rằng con cái của Đức Chí Tôn th́ nhiều mà hạng đặng siêu rỗi vẫn ít. Có người đó cũng có học thức nghe vậy tức ḿnh nói: "Đấng Cứu Thế đến siêu rỗi th́ siêu hết, chớ có lư nào kêu lại không đến, Thánh giáo nói làm sao vậy chớ?" coi bộ bất b́nh lắm.

Đến ngày lễ Đức Chúa Giáng Sinh, tuyết trời lạnh lắm, mà anh ta cũng làm chức trùm hay cậu ǵ trong Đền Thánh đó, nhưng đến buổi lễ thấy Đền Thờ trống trơn. Ông Cha mới kêu anh ta lại, vừa cười vừa nói rằng: "Nhiều người kêu mà ít kẻ đến là vậy đó." Anh ta nhớ lại lời ḿnh vấn nạn khi trước, bắt thẹn thuồng mắc cở.

Nếu nền Đạo của Chí Tôn phải tùng theo sự nồng lạnh mà thạnh hay suy, th́ đây về sau, Bần Đạo tưởng nếu trời mưa miết ắt diệt Đạo Cao Đài nầy đặng có phải?


 

16- VẬN MẠNG CỦA NƯỚC VIỆT NAM HIỆN THỜI.

 

Tại Đền Thánh, đêm 23 tháng 2 năm Mậu Tư (dl. 02-03-1948)

 

Ngày nay Bần Đạo hạ san một lần nữa, bởi vấn đề tương lai, vận mạng của nước Việt Nam chúng ta tới giai đoạn rắc rối không giải đặng.

Bần Đạo phải liệu một giải pháp nào đặng làm cho thái b́nh đặng cứu văn t́nh thế của ṇi giống Việt Nam, bằng chẳng vậy th́ như trước mắt chúng ta thấy trường lưu huyết vô lối mà tàn sát chúng sanh rồi đó. Khi Bần Đạo bị đồ lưu hải ngoại (Madagascar) trở về thấy thời cơ đang rối rấm, cuộc cờ nước nhà đă lâm vào lối bế tắc không thế thắng được. Nhưng nhờ đức tin vững vàng nơi Đức Chí Tôn mà Bần Đạo t́m phương thế xóa bỏ bàn cờ nầy, sắp làm bàn cờ khác giao cho họ giành, nhưng họ đi thế nào mà tới đây lại bị bí nước nữa. Nước bí nầy thật là khó gỡ, mà cũng theo đức tin quá mạnh nơi Đức Chí Tôn, Bần Đạo t́m giải pháp đặng thí nghiệm, đắc thành chăng là do nơi ở nhà cầu nguyện cho giỏi, để tâm mỗi ngày đừng lo ra, đem cả tinh thần thống nhứt lại cầu nguyện cho Bần Đạo làm được đắc thành kết liễu.

Tấn tuồng nầy rắc rối chẳng khác như Bần Đạo nói bóng, rán t́m hiểu, trong gia đ́nh một ông cha cầm cái giấy nợ từ lâu mà đ̣i không đặng, nhà lại nghèo khổ, con cháu anh em tông tộc rầu buồn, có một chú ba nài (cornac) cũng cha Hồ chú Nhẫn ǵ đó, đến dụ dỗ nói rằng: Có thể đủ tài năng đ̣i nợ, rồi thâu đoạt giấy nợ đi, vị Trưởng Tộc tính đ̣i đặng giao cho nó cái chủ quyền đó, rồi ra khỏi nhà của ḿnh, chú ba nài đ̣i không ăn thua ǵ cả, đáo để nợ đ̣i không được mà trong Tông đường hao tốn tiền của mồ hôi nước mắt nữa. Ông Trưởng Tộc mới tính về đ̣i lại, cái chú ba nài kia nhồi sọ cả Tông đường đó nghe lời của chú. Ông Trưởng Tộc muốn về th́ chủ nợ nói: "Ông hỏi cả Tông đường của ông, nếu nh́n cái quyền của ông th́ tôi trả cho". C̣n đối với Tông đường đó th́ chú lại nói: "Coi chừng ổng về đ̣i rồi ổng lấy luôn một ḿnh ổng đa". Hiện giờ phải giải quyết làm sao cho người thiếu nợ phải trả, làm sao cho ông Trưởng Tộc đó minh biện cho người phải trả, hai vấn đề đó Bần Đạo cần giải quyết trong chuyến đi nầy.


 

17- Đ̉I LẠI CHỦ QUYỀN CỦA NƯỚC VIỆT NAM.

 

Tại Đền Thánh, đêm rằm tháng 3 năm Mậu Tư (1948)

 

Sau khi Bần Đạo đă làm xong phận sự đối với quốc gia Việt Nam, với chủng tộc Việt Nam y như Thánh ư của Đức Chí Tôn đă hứa hẹn từ trước, Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái của Ngài.

Chư Chức Sắc Thiên Phong Thánh Thể của Đức Chí Tôn cũng vậy, và toàn Đạo Nam Nữ cũng vậy. Cả thảy đều giúp Hộ Pháp một cách huyền bí, không phương ǵ tả đặng. Sự liễu kết cho tương lai quốc gia ṇi giống nầy, quả quyết chắc chắn do trong khối óc của Thánh Thể của Đức Chí Tôn và toàn thể con cái của Ngài sản xuất đó vậy, có một điều lạ chướng mà Bần Đạo không phương suy nghiệm đặng, là khi Bần Đạo hạ san với giải pháp mới trong tay, cầm xuống kinh thành th́ Bần Đạo tưởng rằng sẽ gặp điều khó khăn, không thể giải quyết đặng với nhà chưởng quyền của Đại Pháp. Trái ngược lại, Bần Đạo thấy một tinh thần của một ṇi giống công chánh, đă hiển nhiên hiện trước mắt Bần Đạo, là người đă thấu đáo việc ḿnh đương hành động và người ta đợi ḿnh nói việc ḿnh đang làm đó, mà ḿnh lại không nói, không làm cho người ta hiểu. Có lạ ǵ, t́nh trạng của một nước đă đánh tan quân chủ, lập nên dân quyền làm đầu vạn quốc, về Pháp Chánh ấy mà người ta tức tại sao toàn cả quốc dân Pháp lại tự nhiên coi dân chủ là trọng, mặc dù muốn hay không mà Pháp Chánh buộc th́ người ta phải tôn sùng, tức là xu hướng theo đó. Lại nữa vạn quốc c̣n để mắt coi hành tàng của người ta là lẽ tự nhiên, đó là điệu nghệ sở trường, họ muốn đến bảo thủ mà khỏi mỉa mai miệng thế, nhưng công chánh của nhà chưởng quyền nước Pháp sẵn có, chúng ta chỉ nhắc lại mà thôi. Đại nghiệp của Việt Nam người Pháp đă lấy trong tay của nhà vua, th́ phải trả lại cho nhà vua, không thể trả lại cho ai khác đặng, mà ít nữa trả cũng có người đứng lên nói chớ. Người ta đợi ḿnh nói, mà ḿnh không nói, v́ vậy mà hai năm nay chiến đấu bằng một cách vô lối. Trái ngược lại Bần Đạo đă đến giáp mặt và đă thấy thiên hạ hưởng ứng nh́n nhận chánh lư lời nói của ḿnh là nước Pháp sẽ trả độc lập và thống nhứt cho nước Việt Nam.

Lạ lùng thay! Con đường khó mà thành dễ. C̣n bây giờ tới đoạn đường ḿnh tưởng dễ mà thành ra khó, là nhà vua của ḿnh là Bảo Đại chần chờ chưa quyết định, làm khó, trở ngại người ta, nghĩ cũng buồn cười, nhưng dù sao Chí Tôn cũng đă định sẽ kết liễu y như Thánh ư của Ngài, không khi nào sai chạy đặng.

Bần Đạo đă thường giảng rằng: Dầu cá nhân, dầu gia đ́nh, dầu quốc gia, xă hội, dầu cho toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy phải chịu trong khuôn luật quả kiếp của ṭa chánh trị và Ngọc Hư Cung, là Ṭa Tam Giáo đang nắm quyền Càn Khôn Thế Giái rất nghiêm khắc và oai quyền, oai lực ấy vô đối, không quyền năng nào đối thủ đặng. Trên quyền ấy có mấy vị Phật thuộc Cực Lạc Thế Giới vi chủ quả kiếp, nên dù cho Chí Tôn cũng không sửa cải định án của họ đặng.

Ta thấy ngày nay, toàn quốc dân Việt Nam đương oằn oại trong sự thống khổ cốt nhục tương tàn, ta thử xét cao hơn nữa, th́ ta thấy quả kiếp dựng h́nh tướng các đời Đinh, Lê, Lư, Trần, Lê tới ngày nay ta thấy giống ṇi Việt Nam gây ra biết bao nhơn quả. Ta xem cộng thử Việt Hớn mà đoán buổi sau nầy nào là Tây Sơn, nào là Mă Ngụy, hễ có vay ắt có trả, tấn tuồng ngày nay diễn lại là tấn tuồng tổ tiên đă làm hồi trước. Một quốc gia diệt Tây Sơn thế nào, th́ ngày nay cũng diễn lại y như thế ấy. Quả kiếp đă xuất hiện rồi, ta trách ai, ta phiền ai, ta than khổ với ai, trước đă làm nay phải chịu! Cho đến nước, cái Đại nghiệp Thiêng Liêng do Đức Chí Tôn đến tạo nơi mặt thế nầy, mà cũng phải chịu ảnh hưởng hay không cũng nguy khốn mà chớ.

Nếu Bần Đạo không thủ pháp cho oai nghiêm, th́ cũng chẳng khỏi sự tranh quyền đoạt vị trong cửa Đạo nầy. May thay! Bần Đạo có đủ oai quyền vay trở các quả kiếp ấy, làm cho Thánh Thể của Đức Chí Tôn khỏi bợn nhơ quả kiếp, mà tránh được Thiên điều. Rồi đây, chúng ta mở mắt coi lịch sử của Đời và lịch sử của Đạo, cũng như h́nh với bóng, y như nhau không phương nào khác được.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 15-03-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 23-04-1948).


 

18- QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.

 

Tại Đền Thánh, đêm mồng 1 tháng 4 năm Mậu Tư (1948)

 

Bữa nay Bần Đạo giảng một vấn đề trọng yếu nhưng chẳng giảng một bữa mà đủ, nên cần phải tiếp tục nhiều lần Bần Đạo mới giảng dứt. Sau một buổi lễ cúng rồi, th́ giờ lên giảng đài rất ít, Bần Đạo phải thúc nhặt lại là v́ mỗi lần hành lễ rồi cả thảy đều mệt. Bần Đạo sẽ liệu phương sắp đặt lại là giảng trước giờ hành lễ. Theo trong bài thi của Đức Chí Tôn gởi cho Hoàng Đế Bảo Đại có hai câu yếu trọng cho nền Thánh giáo Chí Tôn hơn hết là hai câu nầy:

"Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo
Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong"

Hai câu nầy chúng ta hiểu rằng, Đức Chí Tôn muốn nói với Ngài Bảo Đại nền Quốc Đạo của Người, ngày nay đă thành Đại Đạo, trong chữ Đại Đạo bao trùm cả đức tin loài người, câu thứ nh́ "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong" chữ phong không phải là gió, nó có nghĩa lư lắm! Phong đây là phong tục, Chí Tôn muốn nói phong tục nước nhà của Người sẽ làm nền phong hóa của loài người, hai câu ấy chúng ta nên đoán xét, suy gẫm coi Đức Chí Tôn v́ thương mà quá lời không? Thảng như Tôn giáo nào kích bác họ sẽ nói Chí Tôn tự tôn, tự trọng, hay là họ có đức tin hơn nữa họ có thể họ bàn luận rằng:

Chí Tôn v́ quá thương mà nói. Vậy chúng ta thử coi nền Quốc Đạo của chúng ta sẽ trở nên nền Tôn giáo của toàn cầu chăng? Và phong hóa chúng ta có thể thay thế cho cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy chăng? Chúng ta nên quan sát, suy gẫm rồi tưởng tượng coi có thể đặng vậy không? Có thể được và Bần Đạo tin quả quyết rằng nó phải như vậy đó. Tội nghiệp thay! Một sắc dân đă từng bị nước Trung Hoa khắc phục, tuy chịu trong hoàng đồ, chúng ta có một lịch sử trong 4.000 năm tranh đấu, vẫn tự do, độc lập không chịu tùng mạng lịnh của Trung Hoa. Nước chúng ta như cái vải áo, c̣n Trung Hoa như cái áo, chúng ta không có lư lẽ ǵ từ chối tinh thần một sắc dân anh dũng ấy, nó phải nương cái năng lực nơi chỗ nào? Ấy là nương tinh thần Đạo giáo nước nhà của nó, chúng ta phải chịu ảnh hưởng trọng hệ hơn hết của hai nền Tôn giáo Trung Hoa thọ giáo Ấn Độ dạy chúng ta tu cho được chí thiện, chí nhơn, Phật giáo bên Ấn Độ dạy chúng ta tự tu đặng đạt đại từ đại bi. Hai cái khối tinh thần hiệp nhau lại làm một nền Tôn giáo, để được bảo trọng tinh thần quốc túy của ḿnh.

Chí Tôn đă nói cùng người Pháp: Từ thử một sắc dân ấy chỉ biết nô lệ chưa biết vi chủ, v́ vậy mà Ta đến bồi thường sự bất công ấy, Đạo giáo đă dạy chúng ta chí thiện chí nhơn, đại từ đại bi, tinh thần đó vậy, hỏi vậy ngày nay chúng ta phải tùng hay chăng? Tôi dám chắc giọt Cam Lồ ấy, tinh thần loài người đă khao khát, để bảo tồn sanh mạng, bằng chẳng vậy th́ nhơn loại phải tự diệt mà chớ.

Tại sao tự diệt? Chúng ta thấy trường hổn độn một nền văn minh gồm có tinh thần duy vật mạnh mẽ mà chớ, cái chánh sách của loài người chạy theo duy vật đương nhiên th́ mặt địa cầu này chưa ḥa b́nh v́ họ chỉ biết tranh sống với duy vật, chớ chưa sống với tinh thần chí thành, cái quyền năng của Đạo giáo Gia Tô mạnh mẽ dường nào mà ngày nay phải thoái bộ trước năng lực của toàn cầu, c̣n Đạo giáo mà đến thay thế đặng cái năng lực ấy, rồi đây cũng chưa chắc quyết thắng tấn tuồng tương lai, mà vật chất sẽ dẫn đến con đường tử lộ không phương cứu chữa, duy có Đức Chí Tôn đến cứu loài người mà thôi.

May thay! Trong ṇi giống tổ phụ chúng ta để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày nay lấy ra làm món thuốc cứu cả tinh thần nhơn loại trong hoàn cầu này và trong tủ thuốc thiêng liêng đó để làm vị cứu sanh, tức nhiên là cái phương cứu khổ chẳng khi nào sai chạy. Nhưng v́ chẳng đủ năng lực để cứu thế, đem hoàn thuốc hằng sống ấy bảo tồn sanh mạng loài người.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 01-04-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 09-05-1948).


 

19- Giảng tiếp câu Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.

 

Tại Đền Thánh, đêm mồng 5 tháng 4 năm Mậu Tư (1948)

 

Bần Đạo ngày nay giảng tiếp câu Thánh ngôn "Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo" của Đức Chí Tôn, giảng hôm kỳ lễ vừa rồi. Bần Đạo để đại khái đề mục cho toàn cả tiềm tàng thử coi nền Tôn giáo của chúng ta sẽ biến tướng ra thành Đại Đạo là chỗ nào? Nó đă đem cái ǵ cho nhơn loại về mặt tinh thần đạo đức mà biến ra đại đồng. Chúng ta đă ngó thấy nguyên do Đạo giáo bao giờ loài người phải chung họp lại với nhau, nào xă hội, nào là gia đ́nh, dầu trong buổi ăn lông ở lổ loài người chẳng hề qua mặt luật thiêng liêng đó đặng. Buổi ấy, tất cả có bí pháp, hội họp gia đ́nh; Đức Chí Tôn duy có một ḿnh, Ngài phân ra mới có Phật Mẫu, Ngài phân ra đệ nhị quyền hiệp lại đệ nhứt quyền, đủ quyền năng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ để lập gia đ́nh cho loài người đó vậy. Nhờ Chí Tôn phân tánh là bí pháp lập thành xă hội đó, chúng ta đă hằng tưởng hiểu cả, loài cầm thú phải có hiệp lại mà biến sanh được, giải rơ là trống mái, đực cái hay nam nữ vậy, nó tương liên trước mặt chúng ta, hoặc một cách âm thầm bí mật, vậy loài người bao giờ cũng có xă hội nhơn quần, gia đ́nh, v́ mặt luật buộc như vậy, lời chúng ta thường nói: "Chưa ai ở đất nẻ mà chun lên".(*)

Mỗi cá nhân đều có nguyên do căn bản. Hại thay! Xă hội b́nh quyền tức nhiên mặt địa cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất ấy nương với quyền năng tinh thần mà loài người đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mầu nhiệm của tạo đoan, đời có triết lư, khoa học làm cho đảo lộn tinh thần, họ làm rồi họ tự kiêu là làm chủ cả cơ quan bí mật của loài người, tự khoe ḿnh là Trời; tự kiêu, tự đắc, tự tôn, tự đại, chúng ta đă thấy họ từ chối mọi lẽ thiên nhiên. Ngày giờ nhân loại xu hướng theo phương pháp vật h́nh, quyền năng khoa học, lư thuyết quái gở dị đoan ấy, làm cho tinh thần loài người ngu xuẩn, cho rằng không Trời, không Đất, tức nhiên không Đạo, không người, không xă hội, không gia đ́nh; sống như con vật chung hiệp với nhau đồng sống vậy thôi. Sống không quyền lực tinh thần vi chủ, không thể nào nhơn loại tự bảo tồn cho dân chúng đặng mà tránh khỏi nạn tiêu diệt, họ coi mạng sống của loài người là một vật dụng, để hưởng hạnh phúc sung sướng, lường gạt, buộc tinh thần loài người làm nô lệ cho vật h́nh, chúng ta thấy tấn tuồng nguy ngập, xô đẩy loài người đi đến diệt vong.(*)

Tổ phụ chúng ta sống từ thượng cổ đến nay 3.000 năm, một vị chí Thánh để lưu lại cho đời mực thước niêm luật xă hội, nhơn quần, Ngài định phải có gia đ́nh, có tông tổ, có xă hội, Ngài lập pháp trọn trong điều ấy, từ thường dân chí Vương Đế, không ai ra khỏi mặt luật.

Tổ phụ chúng ta chịu Đạo giáo để lại sự thờ phượng tông tổ gia đ́nh chúng ta, tức nhiên thờ kẻ quá văng, ta coi người chết như sống, chúng ta tôn sùng mạng sống của con cái Người, v́ loài người là Thiên hạ mà Thiên hạ là Trời.

Chúng ta biết nh́n nhận Trời trên mặt địa cầu, chúng ta biết thờ phượng Trời, tức nhiên thờ loài người đó vậy. Đạo giáo chúng ta để lại 2.000 năm, vậy điều trọng hệ là thờ Trời và thờ Người, buổi hổn độn nầy, nhơn loại v́ khoa học mà đi đến một đường tử lộ. Chúng ta cần đến Đạo giáo phô trương trên mặt địa cầu nầy cho nhơn loại họ biết tự tỉnh để trụ cả tánh loài người lại, hưởng hoàn thuốc cứu sanh mạng họ.

Bần Đạo giảng lần trước, tiếp kỳ nầy kết luận là huờn thuốc thờ Trời và thờ Người, thảng vạn loại phản phúc mà c̣n chối nữa th́ chịu tận diệt mà thôi.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 05-04-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 13-05-1948).
Cuối những đoạn có dấu (*): Để cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.


 

20- Giảng tiếp câu Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.

 

Tại Đền Thánh, ngày 14 tháng 4 năm Mậu Tư (1948)

 

Hôm nay Bần Đạo giảng tiếp Thánh ngôn của Thầy câu: "Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo, Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong". Chúng ta quan sát coi nền Quốc Đạo của chúng ta có phương thế ǵ để làm một nền Tôn giáo cho hoàn cầu?

Đương nhiên bây giờ, cái tinh thần của loài người chỉ xu hướng theo trí thức đương nhiên của họ. Họ có thể được cái hành vi bí mật thiêng liêng mà lập nên cơ giới phi thường ở mặt địa cầu nầy. Nhưng cái cơ giới ấy do nơi hóa công sản xuất ra tâm năo của kẻ trí thức thông minh đặng bảo vệ sanh mạng của loài người và lập hạnh phúc cho loài người.

Trái ngược lại, những hạng trí thức thông minh ở trong thời đại nầy, đều nảy sanh do một tâm lư khoa học mà thành h́nh, rồi tâm lư khoa học ấy trở lại tàn sát sanh mạng của loài người, đó là đến những cảnh bạo ngược. Hơn nữa, trước mắt chúng ta đă ngó thấy hai trận giặc trên hoàn cầu đă giết hại nhau, nên hiện giờ trên mặt địa cầu đă tự giết chết bao nhiêu mà kể.

Cái trí thức tinh thần ấy có làm ǵ cho đồng bào và thời đại nầy đặng hạnh phúc chăng? Trái lại, nó đem cho đời một tấn tuồng thống khổ trước mắt cả thảy. Bần Đạo chỉ nhắc lại cho con cái của Đức Chí Tôn thấy rơ, nhơn loại hiện nay đă xu hướng theo hạng trí thức tinh thần khoa học th́ có kể đâu là thương chủng tộc, nên ngày nay đă gây ra biết bao tấn tuồng thê lương thảm đạm, nhơn loại hết yêu ái nhau, mà trái lại người với người họ đối nhau c̣n quá hơn thú dữ, người với người mà họ chưa biết tôn trọng mạng sống với nhau, họ lại đoạt mạng sống của nhau đặng t́m hạnh phúc.

Mặt địa cầu nầy, sanh ra các đảng phái nào th́ chỉ biết tương tàn tương sát với nhau mà thôi, họ không kể ǵ là sanh mạng của con người ra thế nào cả. Họ không biết tôn trọng mạng sanh của loài người, họ chỉ biết lấy xương cốt của loài người mà lập đài danh dự của họ thôi. Cái mục đích bạo tàn của họ, chúng ta đă thấy hiển nhiên trước mắt, cái thảm khổ của đời mà chưa hề có ai thấu rơ tâm lư khổ năo của đời, đem ḷng thương hại đến nhơn sanh.

Từ Phật giáo ra đời đến bây giờ, tinh thần của loài người mới biết thương hại cho nhau, một nơi nào có một tâm hồn ưu ái th́ các Tôn giáo đương nhiên trước kia là một huờn thuốc để cứu chữa cái bịnh thảm khổ của loài người nơi mặt địa cầu nầy, nhưng nay huờn thuốc cứu chữa ấy để tại mặt thế nầy, nó không thể trị đặng một bịnh tinh thần, khoa học đương nhiên của họ đă sản xuất trên mặt địa cầu nầy. Thử hỏi chúng ta có đem ǵ hạnh phúc cho họ không? Chúng ta chỉ biết đem hai chữ nhơn nghĩa mà lập nền hạnh phúc cho họ thôi.

Tuy vậy, ṇi giống của chúng ta là một sắc dân chiến đấu, một sắc dân oanh liệt, từ xưa tổ phụ ta biết hiền lành, biết kỉnh trọng, biết thương yêu, kỉnh trọng mạng sống của loài người lắm, cái tánh thông thái, cái tánh thông minh của tổ phụ của chúng ta sản xuất trong một nguồn cội từ lành, không điều ǵ đem đến trước mắt tổ phụ của chúng ta, mà tổ phụ chúng ta t́m ṭi không đặng.

Nước Việt Nam ở trong khoản đất ph́ nhiêu nên tổ phụ chúng ta biết trọng sanh mạng con cái của Trời, biết nhận nhơn loại là anh em, là cốt nhục, đồng chung mà ra, biết nh́n câu: "Tứ hải giai huynh đệ"; tổ phụ ta biết thương yêu nhơn loại, bất kỳ là một sắc dân nào, một ṇi giống nào có trí thức cao minh làm cho loài người đặng hạnh phúc th́ tổ phụ ta kỉnh trọng tôn thờ vậy. Một nền Tôn giáo nào đến nước Việt Nam ta truyền bá th́ tổ phụ ta kỉnh trọng tôn sùng ngay. Nên mối Đạo nào vào nước Việt Nam ta đều được kết quả mỹ măn. Ḷng mộ Đạo của tổ phụ ta trước kia lấy lương thiện làm căn bản, lấy nhơn nghĩa làm môi giới, cái sự tôn nghiêm của tổ phụ ta từ thử hiển nhiên chúng ta đă ngó thấy.

Trong nước hiện giờ th́ có các Đạo giáo thanh liêm chánh trực đang làm cha mẹ cho dân, cái tinh thần tạo hạnh phúc cho dân, một trang anh dũng biết bảo trọng nền quốc túy, nâng đỡ nước nhà, biết tôn sùng nhơn nghĩa, chúng ta đă ngó thấy các Đạo giáo của chúng ta đem cái nhơn nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm lư của loài người là có thể trị đặng cái tinh thần bạo ngược của họ.

Nhơn loại v́ quá ỷ tài sức nương theo cái tinh thần khoa học mà làm mất cái tinh thần căn bản nhơn luân. Nên nay ta đem cái đạo nhơn nghĩa mà thức tỉnh loài người, đặng cho họ nh́n với nhau v́ danh nhơn nghĩa hầu thương yêu nhau, dắt nhau đi đến chủ nghĩa đại đồng.

Cái nền nhơn nghĩa của chúng ta, nó có thể làm môi giới cho các chủng tộc trên thế giới, đạo nhơn nghĩa của chúng ta là một căn bản của quốc thể của nước Việt Nam và có thể thành Quốc Đạo được.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 14-04-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 22-05-1948).


 

21- Giảng tiếp câu Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 5 tháng 5 Mậu Tư (dl. 11-06-1948)

 

Hôm nay Bần Đạo giảng tiếp câu Thánh ngôn của Đức Chí Tôn "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong". Bữa trước Bần Đạo đă giải rơ đại công của nền nhơn luân phong hóa của ta. Nay ta sưu tầm căn nguyên của Nam phong coi do đâu mà sản xuất. Bần Đạo đă giảng là cốt yếu muốn thực hành phong hóa nhà Nam, phải do nơi Nho tông mà làm căn bản.

Thời kỳ nầy Chí Tôn đến, lấy Nho tông để chuyển thế và thi thố cho cả toàn cầu vạn quốc một triết lư tối tân, đặng chỉnh đốn sửa đương những tệ tục tồi phong của nhơn loại mà đem vào Thánh chất của con người. Đức Chí Tôn đă t́m định đến đặng sửa đương. Vậy ta nên t́m hiểu Nho tông là thể nào? Đă cho ta vật ǵ? Có đủ phương tiện mà chuyển thế đặng chăng? Trước hết ta phải biết trong tay ta có khí cụ ǵ rồi mới có đủ can đảm xông pha ra chiến trường quyết thắng, t́m xem coi nhơn loại đang thiếu thốn điều ǵ và xem coi nhơn loại đang t́m kiếm vật ǵ, mà vật ấy chúng ta có hay không?

Nói đến Nho tông, th́ chẳng c̣n ǵ phải biện thuyết nữa, v́ đă có chẳng biết bao nhiêu là Hiền môn, Thánh tích để lại từ thử. Kể từ ngày Đức Khổng Phu Tử giáng thế đă hai ngàn năm trăm (2.500) năm, nếu ta suy xét cao xa hơn nữa th́ ta thấy Đạo Nho phát sanh từ vua Phục Hi là tối cổ hơn hết. Ta không thể t́m đâu xa hơn nữa, duy biết rằng Đức Khổng Phu Tử học Nho của ông Châu Công, đặng chỉnh đốn lại Đạo Nho, khi Ngài đến tại thế nầy vậy.

Đạo Nho đă làm được những ǵ? Ta thấy Đạo Nho của chúng ta có Hội Thánh mà Hội Thánh ấy bí ẩn khéo léo lạ lùng duy có một người có thể kiến thiết quốc phong của một nước mà thôi, chớ không đủ năng lực chuyển cả tâm lư toàn cầu được. V́ sự khuyết điểm ấy, Đức Chí Tôn mới đến lập Hội Thánh, đền thờ của Ngài kêu là Cao Đài, danh từ đó chỉ rơ đền thờ cao trọng của Ngài tại thế nầy, tiếng Pháp gọi là Haute Église (nghĩa là đức tin cao trọng).

Hỏi Hội Thánh của Đạo Khổng lập quốc thế nào? Ta thấy Hội Thánh của Đạo Khổng trong gia đ́nh làm gia pháp biến sanh ra phong hóa gia nghiêm đó vậy. Người chưởng quản gia đ́nh tức là giáo sư, Hội Thánh của Đạo Khổng tức là ông cha, nên thiên hạ thường kêu là chủ gia.

Trong hương đảng có Hội Thánh của hương đảng, theo cổ tục th́ ông Hương Chủ là chủ của Hội Thánh hương đảng, c̣n chức Hương Cả và Đại Hương Cả là người ta mới bày ra sau đây mà thôi. Trong hương lân ngày xưa, chức Hương Chủ là lớn hơn hết vậy. Khởi đầu trong gia đ́nh, rồi mới tới hương lân, rồi mới ra đến quốc gia, người chủ của quốc gia ấy là nhà Vua. Ông cha ta trong gia đ́nh, ông Hương Chủ trong hương thôn, ông Vua trong nước, cả ba người ấy giữ ba giềng mối đạo, phụng thờ ba Tôn giáo. Tổng số ba Tôn giáo ấy lại là Nho tông.

Ông cha trong nhà th́ thờ Tiên Tằng Tổ Khảo của Tông Môn, ông là giáo sư, là thầy cả trong gia đ́nh. Ông Hương Chủ th́ thờ Chư Thần tức là cả Công Thần v́ nước mà hy sanh tánh mạng, được nhà Vua ân tứ làm chủ hương lân, nên trong làng ta chỉ thấy có đ́nh thờ Thần thiên thu phụng tự mà thôi, nên ông Hương Chủ là thầy Cả của làng. Nhà Vua th́ thờ Đức Chí Tôn tức là Ngọc Hoàng Thượng Đế, ta thấy sự tế tự Đấng Chí Tôn ấy lưu truyền từ đời thượng cổ, nên hằng niên mới có tế Nam Giao, đó là tế Đức Chí Tôn vậy.

Từ đời lập quốc đến giờ, trong phong hóa nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng tự, nếu đoán chắc là nhờ âm chất của tổ tiên ta biết phụng thờ Đức Chí Tôn, cái thâm t́nh ấy c̣n lưu truyền lại mà ngày hôm nay Ngài mới đến đặng đền bồi ân nghĩa ấy lại có lẽ. Thế th́ Ngài đến v́ Tổ tiên ta đă gieo mối thâm t́nh nồng hậu, chớ chẳng phải v́ sự t́nh cờ mà Ngài đến nước Việt Nam nầy đâu. Trong phong hóa của ta gồm có: Phong hóa của nhà, phong hóa của làng, phong hóa của nước, tức là phong hóa chung của xă hội nhơn quần Việt Nam ta đó. Bây giờ chúng ta khảo cứu coi Nho tông đối với xă hội là ǵ? Tức nhiên ta thấy là luật pháp, tuy rằng 86 năm nay bị ảnh hưởng của văn minh Âu Châu, chúng ta lăng quên nền phong hóa tốt đẹp của ta mặc dầu, nhưng tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.

Chí Tôn đă đến, Đạo Nho có Thất thập nhị Hiền, và Tam thiên đồ đệ, Chí Tôn lập Hội Thánh có Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, và Tam thiên đồ đệ, rơ ràng là Hội Thánh của Đạo Nho đó. Hiện giờ ta nhận thấy Ngài áp dụng nền chánh trị của nhà Châu đặng lập chánh trị của Đạo, làm cho cả cơ quan yếu thiết của Đạo Cao Đài ra thiệt tướng, đặng đủ năng lực chuyển thế, ta không có ǵ mà nghi ngờ nữa cả.

Gia nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có những ǵ? Căn bản gia nghiêm hay gia pháp do nhơn luân chi Đạo, nên lấy nhơn luân làm chuẩn đích, mà nói về nhơn luân th́ mỗi người đều biết. Khởi đoan là hôn phối, việc vợ chồng đối với nhau để trọn quyền của ông chủ gia định liệu là người chồng, sau quyền chủ gia ấy lại có quyền nội trợ để cho người vợ, hai quyền ấy vô đối. Ta thấy lối 100 năm trước đây, quyền của cha bảo con chết cũng phải chết, không phải bất hiếu như ngày hôm nay của những kẻ học đ̣i theo lượn sóng tự do văn minh vật chất, rồi c̣n trở lại muốn làm chủ cha mẹ. Không, Nho pháp không cho có quyền lực ấy bao giờ. Nho pháp không chịu cho cái giọt máu, cái giọt khí huyết, do vật ấy tạo h́nh, lại muốn làm chủ vật ấy tạo đoan ra nó, như vậy là sái luật thiên nhiên của Chí Tôn dĩ định. Hỏi vậy cái quyền nắm đạo nhơn luân trong tay của ông cha ta quan sát theo con mắt của đời văn minh nầy th́ nói là quyền áp bức có phải? Hại thay! Nếu quyền ấy không chỉnh đốn lại phong hóa của con người đem vào khuôn khổ thuần phong mỹ tục th́ cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ chạy theo hưởng ứng với sự tự do mà đi đến địa vị con vật, là mất hết tính chất làm người đó. Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đă trọn kiếp sanh lịch duyệt thế t́nh, mà sự lịch duyệt ấy c̣n vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đă làm bại hoại thân h́nh, tâm lư con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối căi được.(*1)

Bần Đạo buổi ấu xuân bị ảnh hưởng của tự do, thấy sự kềm thúc của gia nghiêm lấy làm khó chịu. Khi ấy Bần Đạo đang học Pháp Văn. Lúc về thăm ông thầy Nho, khi đến đó ông mới tường thuật t́nh cảnh bối rối gia đ́nh của một vị quan viên bà con xa với Bần Đạo. V́ vợ làm khổ tâm cho chồng là vị quan viên ấy, đến nỗi gia đ́nh phải tan nát. Ông tường thuật câu chuyện nầy vừa xong th́ lại than rằng: "Hại thay! V́ buổi trước không phải cha mẹ định hôn, mà tự do kết hôn nên ngày hôm nay mới ra dường ấy". Thừa dịp ấy Bần Đạo mới vấn nạn ông, Bần Đạo hỏi rằng: "Gia pháp của ta nghiêm khắc quá lẽ, đến sự chăn con như chúa ngục chăn tù, nếu không có quyền tự do th́ con sẽ tối tăm ngu dốt?". Ông lại trả lời rằng: "Không, không phải gia pháp áp bức làm cho con mất tự do đâu, mà trái lại người có quyền lắm chớ, đến nỗi gia pháp định cho mẹ phải tùng con kia mà "tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử". Quyền của con c̣n có thể thế cho quyền cha được rồi, th́ có áp bức chỗ nào đâu? Chỉ có kềm thúc tâm t́nh của con cho nó đừng thương ai trước khi thương vị hôn phối của nó, để cho nó đủ đầy t́nh ái mà thương người vợ tương lai của nó vậy thôi. Muốn định hôn cho con th́ trước hết cha mẹ đă lựa chọn tâm lư của vị hôn thê coi có ḥa hiệp với tâm t́nh của con ḿnh không, chứ chẳng phải xem xét tánh đức mà thôi, mà cha mẹ là người lịch lăm thế t́nh, nên thâm hiểu cả tâm t́nh của đôi lứa, dầu cho đôi lứa chưa biết nhau trước mà cũng có thể chung khổ cùng nhau, đồng tâm đồng chí thương yêu nhau đặng."

Đạo nhơn luân khởi thủy từ hôn nhơn, mà Nho phong đă định cho cha mẹ vi chủ, nếu để cho đứa con vi chủ th́ chỉ có hư mà thôi, mà gia đ́nh hư tức nhiên sẽ có ảnh hưởng tới xă hội vậy.

Đây là Bần Đạo duy mới nói có gia nghiêm mà thôi, vậy bây giờ chúng ta luận về tâm lư. Sự hám vọng tự do quá lẽ, mà đưa tâm lư con người đến mức khả ố, nguy hiểm không thể tả được. Ta thấy nó gieo trên mặt địa cầu nầy một triết lư vô lối là triết lư: Vô phụ, vô quân, không quê hương, không gia đ́nh, bởi vậy ta mới thấy thế t́nh con sanh ra ngỗ nghịch, không tuân phụ huấn. Thảng như ngoại nhơn có hỏi đến tại sao đă lớn, đă khôn, mà không biết nghe lời phụ huấn cư xử với đời vô để vô nhơn không c̣n t́nh thương nhơn phẩm, th́ chư Đạo Hữu biết kẻ bất hiếu kia sẽ trả lời ra sao không? Nó trả lời rằng: Tôi không xin họ sanh tôi, tôi không muốn họ sanh tôi, chẳng qua là họ v́ lỡ mà sanh tôi nên họ phải nuôi tôi đó thôi. Ôi! Ân đức thâm sanh thật không c̣n có nghĩa ǵ hết.

Những tục lệ ấy nếu Đạo Cao Đài không xuất hiện đặng chỉnh đốn lại, sợ e cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ thành ra ác thú.

 

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 10: Gia nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có những ǵ? ... ... ... Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đă trọn kiếp sanh lịch duyệt thế t́nh, mà sự lịch duyệt ấy c̣n vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đă làm bại hoại thân h́nh, tâm lư con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối căi được.
Nguyên bản chánh in là: Gia nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có những ǵ? ... ... ... Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đă trọn kiếp sanh lịch duyệt thế t́nh, mà sự lịch duyệt ấy c̣n vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do, định phận ấy đă làm bại hoại thân h́nh, tâm lư con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối căi được.
Chúng tôi mạn phép tŕnh bày như trên cho rơ nghĩa hơn.


 

22- BẢO THỦ THUẦN PHONG MỸ TỤC.

 

Tại Đền Thánh, 12 tháng 5 năm Mậu Tư (dl. 18-06-1948)

 

Hôm nay, Bần Đạo tiếp tục khảo cứu phong hóa của dân tộc Việt Nam đối với phong hóa các dân tộc khác, cốt yếu xem coi chúng ta có phương ǵ chỉnh đốn đạo nhơn luân của họ đặng? Mấy kỳ trước Bần Đạo đă giảng rằng: Đạo nhơn luân khởi đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con, có cha con mới có dân tộc lập thành quốc gia xă hội.

Đương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy đă nghiêng đổ và lung lạc tất cả, nhứt là bên Âu Châu, đạo nhơn luân của họ tồi tệ là thường, Bần Đạo thấy rất nên bại hoại, từ thử đến giờ chưa nghe ai nói cha lấy con, anh lấy em, mà bên Âu Châu thường có xảy ra điều ấy. Hại thay! Trải qua tám chục năm nay những tánh t́nh yêu nghiệt ấy lại truyền sang đến ṇi giống chúng ta, ngày nay vẫn c̣n thấy tấn tuồng đó nữa, yêu nghiệt đă biến tướng biểu sao thiên hạ không loạn được. Đạo nhơn luân đă vậy, tinh thần của con người không c̣n biết phẩm vị, nhơn cách ǵ hết, nên hột giống ác nghiệt biến sanh ra măi thôi. Thành thử nhơn loại ngày nay quá bạo ngược, tương tàn tương sát lẫn nhau, người đối với người c̣n dữ tợn hơn thú đối với thú nữa, vô nhơn vô đạo, cha không xứng phận cha, con chẳng biết đạo con, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em, chồng không nên chồng, vợ không đáng vợ, nền luân lư của nhơn loại trên mặt địa cầu nầy không c̣n có khuôn khổ ǵ hết. May thay! Đạo nhơn luân của tổ phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh hưởng của văn minh ngoại bang làm cho ô uế đôi chút, nhưng nhờ Đức Chí Tôn đến phổ truyền nền Chơn giáo của Ngài nơi đất Việt Nam nầy, có thể c̣n sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn mẫu cho toàn cả các sắc dân nơi địa cầu nầy bắt chước theo nữa.

Đạo làm chồng, chúng ta có gương xưa tích cũ, nhờ nơi Nho tông rất oai quyền, nghiêm khắc, mặt luật của nó kềm chế tâm lư của con người. Đạo nhơn luân của nhà Nho ta có cái vẻ đẹp thiên nhiên, ai tiêm nhiễm đến cũng sanh mê mẩn, cảm kích, vậy mới tạo tâm lư theo Nho tông làm h́nh trạng tinh thần Nho Đạo, khuôn tuồng đó duy ở Việt Nam mới có, c̣n các Tôn giáo khác h́nh tướng lại biến ra làm khuôn mẫu riêng trên sân khấu đời, nên Đạo Nho tông thâm nhập vào cốt thể của cả thảy con người đặng. Bao nhiêu gương để chỉnh đốn đạo nhơn luân, cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương cho nhau lập ḿnh lên bực chí Thánh. Như thời xưa vợ ông Châu Công, Ngài là Tể Tướng đầu triều mà bà vợ vẫn lo canh cửi làm ăn nuôi mẹ chồng, một vị mạng phụ phu nhơn mà cư xử được như vậy thật đáng quư. Kịp đến khi ông hồi hưu, buổi già cả vợ chồng đối với nhau như chủ khách. Nước ta lại có bà vợ của ông Phan Thanh Giản. Ông xuất sĩ rồi bận việc triều chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi lại vào Trung, không mấy khi vào Nam. Bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng lo thủ hiếu thay thế cho chồng, xét ra th́ gương ấy cả Âu Châu cũng chưa hề có vậy. Ngày giờ nào, gương mẫu tiết liệt ấy trải ra cho toàn phụ nữ trên mặt địa cầu nầy đồ theo, th́ ngày ấy danh thể của phái nữ mới được trọng nể, nhứt là phụ nữ Cao Đài cần phải làm cho đặng, hầu sửa đương nền phong hóa của Việt Nam trước đă.

C̣n về sự tồi tệ th́ chúng ta hằng thấy tích xưa điển cũ, như có câu: "Đố phụ loạn gia". Lạ lùng thay và khéo léo thay! Chẳng phải do ở bọn hàn mặc hoặc thượng lưu trí thức, lại ở nơi một người đàn bà hạng thường, đủ khôn ngoan đạo đức có đủ hạnh kiểm có thể sửa chồng nên phận được.

Xưa kia có người lính cầm lọng cho Yến Tử là quan Tể Tướng. Ông nầy th́ nhỏ người, c̣n chú lính cầm lọng th́ to lớn kịch cợm. Ông Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều, nhưng con người có tánh cách nho nhă, nề nếp nhà quan, không kiêu hănh, gương mặt khiêm ḥa, c̣n chú lính cầm lọng lại vênh mày vênh mặt, bộ tướng tá nghinh ngang, tưởng rằng không phải Yến Tử mà chính anh ta là Tể Tướng đầu triều mà chớ! Lúc Tể Tướng đi ngang qua, người vợ chú lính núp kẹt cửa thấy vậy, nên khi về nhà mới đ̣i làm tờ để. Anh ta hỏi tại sao? Người vợ nói rằng: "Thiếp núp sau cửa, thiếp thấy chàng đi ngang, Quan Tể Tướng, Ngài th́ nhỏ người mà gương mặt nho nhă, tỏ vẻ hạ ḿnh c̣n chàng thân h́nh to lớn mà chàng hiên ngang coi trái mắt quá lẽ, v́ thế, thiếp lấy làm hổ ngươi không thể ở với chàng nữa". Nhờ vậy, chú lính ấy biết cảm hóa, sau sửa ḿnh lập thân trong hàng ngũ quân binh lên đến bực Tướng. Ấy vậy, đạo nhơn luân nếu biết giữ chặt, th́ vợ có thể làm nên cho chồng, dạy chồng nên đạo được. Phụ nữ Cao Đài cũng thế đă hai mươi ba năm nay tiêm nhiễm đạo đức tinh thần, tạo đầu óc tâm năo, vậy t́m phương dạy chồng thế nào!

Có nhiều hạng người được vinh vang th́ lên mặt phách xấc, không nhớ đến căn bổn hèn hạ của ḿnh khi trước, phải biết rằng chúng ta đứng đợt với thiên hạ được là nhờ Chí Tôn tô mày vẽ mặt cho đó, hạng nầy rất nhiều, phụ nữ nên để ư sửa dạy cho họ bớt tâm tự kiêu đôi chút.

Đối với cha con, Nho tông để lại nhiều vẻ đẹp của tổ phụ chúng ta lưu truyền đặng làm chuẩn thằng mà sửa đương xă hội và lập quốc. Cha hiền mới sanh con thảo, con thảo là hột giống để làm một nền móng tương lai, tương lai quư hóa không thể tả, bởi Tiên Nho chúng ta đă nói: "Vua Nghiêu t́m ông Thuấn đặng truyền ngôi, chẳng v́ lẽ ǵ hơn là nghe danh ông Thuấn chí hiếu, mà một khi ta được chí hiếu rồi th́ không ǵ sánh bằng. Có hiếu rồi mới có nghĩa, có trung, có cang, có trí, nghĩa là hễ có hiếu rồi th́ có thể có đủ hết tính đức khác".

Ngày xưa người ta tầm hiếu, đến tại nơi thôn lân, huyện, phủ, tỉnh lỵ, để hỏi thăm những gương hiếu thuận. Người ta t́m hiếu tức là t́m hiền, do cái hiếu ấy suy độ ra cái hiền của bậc danh thần triều chánh, mà muốn có hiếu th́ cha phải có từ vậy. Bần Đạo thấy quốc dân Việt Nam bị ảnh hưởng của ngoại quốc, con không cần cha, cha không biết đến con, tồi phong tệ tục ấy đă thấy rơ ràng trước mắt. Bởi vậy, trong xă hội có ba người quan trọng: Cha, Chủ, Chúa. Cha là ông chủ của một gia đ́nh, Chủ là ông chủ của một hương đảng, Chúa là ông chủ của một nước, cả ba vị ấy làm đầu từ gia đ́nh lên xă hội. Nếu quyền cha nắm không kham là do người cha bất lực. Truy căn nguyên là do tại tự do kết hôn, chồng không phải chồng, vợ không phải vợ, cập xách với nhau rồi tự lập gia đ́nh, đạo nhơn luân không có chỗ nào ràng buộc, chẳng qua là chơi hoa giỡn nguyệt, không căn bản ǵ hết, biểu sao khi sanh con ra mà chúng lại không trở nên kẻ vô bổn. Nhứt hạng Việt Nam lai của ta là tối hại.

Bần Đạo đă nói để cha mẹ định hôn, như thế có lợi hơn v́ như ta vẫn thấy, cả kiếp sanh lúc c̣n nhỏ, cha mẹ c̣n đủ, đến ông nội, ông cố cũng c̣n nữa, trộng một chút là ta vẫn cũng c̣n thấy đông đảo, đó là khi chưa biết khôn, khi đă khởi biết khôn ngoan th́ ông nội đă đi đâu rồi, rồi cha mẹ đă già, mà ḿnh cũng già nữa, trong lúc ông bà cha mẹ mất, ḿnh cảm thấy cái quyền trong tâm lư của ḿnh cũng mất.

Cha mẹ là bực cao kỳ trí thức, đáng kính, đáng tôn, khi cưới vợ cho con dầu cho chúng ta chưa có t́nh thương nồng nàn đi nữa, nhưng thời gian qua chừng nào, nhứt là khi cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng đă khuất, th́ vợ nhận thấy ở chồng là h́nh ảnh người cha của ḿnh, c̣n chồng nhận thấy ở vợ là h́nh ảnh mẹ của ḿnh, nên được khuây khỏa tấm ḷng và khắn khít không ĺa nhau là v́ lẽ ấy. Nói ǵ trên bộc trong dâu, một đời nếu không có xảy ra điều ǵ th́ thôi, c̣n nếu có xảy ra điều chi sanh phiền sanh giận, th́ chừng ấy không phương thuốc ǵ trị được cả, tâm lư phải chia ĺa th́ t́nh kia phải xa cách, mới dễ bỏ nhau thay chồng đổi vợ, con cái sanh ra thấy tấn tuồng ấy tập tánh học theo, biểu sao tương lai không hư hèn và tánh đức không lạc lầm phàm tâm ĺa đạo đức. Làm cha mẹ nếu chúng ta biết Tiên Nho đă đối với con người như thế nào, và toàn cả xă hội Việt Nam, cả ṇi giống cưng con như thế nào, đến nỗi trong một Tông đường có đứa con nào ngỗ nghịch cha mẹ định từ bỏ th́ chỉ nói ngoài cửa miệng, chớ chưa thấy ai từ con được bao giờ.

Nhớ lại, khi Bần Đạo đi ngoài Qui Nhơn, gặp một ông già tên là ông Sáu Chèo, v́ ông bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà nh́n thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biển ǵ hết, chỉ để một câu đối, mà chỉ có một vế thôi: "Nhược niệm Cửu Huyền chi bổn, khả năng tu tỉnh ngộ thân", nghĩa là: "Nhớ đến Cửu Huyền th́ phải rán ǵn giữ thân ḿnh". Bần Đạo thấy thờ có một câu mà không có sơn thủy ǵ hết, lấy làm lạ th́ ông nói: "Một câu đó đủ nghĩa để dạy con cái biết tuân theo, thành tâm tu chỉnh th́ Cửu Huyền sẽ vinh diệu, biết giữ thân ḿnh không bịnh nhược th́ sanh con sáng láng mạnh khỏe khôn ngoan". Đời bây giờ thiên hạ mê đường hoa nguyệt phong t́nh, sanh con lớn lên thành ho lao, ho tổn, hay tật nguyền, có nhiều sắc dân sanh con thấy tàn tật ghê khiếp lắm, v́ cớ mà mấy năm trước đây Hitler thi hành chánh sách của Đức Quốc Xă xử tử hay là thiến những kẻ tàn tật, bịnh hoạn, lấy lư rằng kẻ ấy chẳng giúp ích ǵ cho nước, chẳng những thêm một miếng ăn cho xă hội lại c̣n di hại cho ṇi giống nữa, nên giết bỏ đi chỉ chừa lại những dân đinh cường tráng, nhưng v́ Đức Quốc Xă đă làm quá lẽ thành ra tàn ác nghịch đạo làm người.

Tổ phụ chúng ta không thi thố chánh sách ấy, chỉ dùng tinh thần đặng giữ con cho nó tránh khỏi sự bạc nhược đă nói, mà ṇi giống Việt Nam nầy không bị tiêu diệt là nhờ khéo giữ đạo nhơn luân từ trước đó vậy.


 

23- PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI PHONG HÓA CÁC DÂN TỘC VẠN QUỐC.

 

Tại Đền Thánh, đêm 19 tháng 5 năm Mậu Tư (dl. 25-06-1948)

 

Bần Đạo giảng tiếp về khảo cứu phong hóa nước ta đối với các dân tộc vạn quốc.

Bần Đạo đă giảng rằng trong quốc gia xă hội chúng ta có ba quyền: Cha, Chủ, Chúa. Ba quyền ấy cầm cả chánh trị của nước nhà, có khác nhau chăng duy có nhỏ và lớn, chớ chánh kiến vốn đồng với nhau. Ba quyền ấy làm nền tảng cho phong hóa chúng ta vậy.

Hôm nay, Bần Đạo tiếp giảng về quyền làm cha và triều chánh của ông cha, tức là gia đ́nh liên quan thế nào đối với triều chánh của làng và triều chánh của nước.

Chúng ta thấy trong ba quyền ấy, duy có quyền chúa là trên hết, sau biến tướng đến quyền cha, quyền thầy. Ấy là đạo Tam Cang: Phụ tử, Sư đệ, Quân thần. Bần Đạo sẽ giảng rành mạch về quyền chúa ấy sau. Bây giờ Bần Đạo giải rơ quyền cha mà thôi.

Vả chăng chúng ta để ư cho tận tường xem coi xă hội chúng ta thấy có điều đặc sắc riêng biệt không giống với các xă hội khác, là từ khi Đức Khổng Phu Tử hiệp ba quyền ấy làm Hội Thánh của Ngài. Ông cha tức là thầy của gia đ́nh, ông chủ tức là ông thầy cả của làng, ông vua chúa tức là ông thầy cả của nước. V́ cớ nên h́nh trạng của ba quyền ấy Bần Đạo nói rơ là lớn nhỏ khác nhau, mà chánh kiến vẫn là một. Trong gia đ́nh nếu ta không gọi là ông Cha th́ gọi là ông Chúa của gia đ́nh, cầm đầu cái triều chánh của ông, bà vợ trong gia đ́nh, người ta c̣n gọi là Nội Tướng tức là Thủ Tướng của gia đ́nh, cả con cái là Lục Bộ Đài Quan, tôi tớ hoặc những công nhân giúp việc trong gia đ́nh tức nhiên là toàn dân vậy.

Ấy vậy, gia đ́nh theo phong hóa Việt Nam ta rất trọng hệ, ông Cha của gia đ́nh cũng như ông Chúa của nước vậy, nên xét ra đến cực điểm phong hóa của ta th́ thấy tốt đẹp lạ lùng, chỉ v́ ta không quan tâm đến thôi, nếu để ư ta sẽ vui hứng hạnh phúc đặc biệt, bởi không có dân tộc nào giống như chúng ta, kỳ dư nước Tàu cũng chịu một ảnh hưởng văn minh như chúng ta mà cũng không đồng một vẻ hay là giảm bớt th́ có. Trọng hệ là gia đ́nh, mà gia đ́nh có được trọng hệ th́ ông Chúa của gia đ́nh mới trọng. V́ cớ đạo làm Cha, phong hóa chúng ta kính trọng một cách vô đối. Đối với xă hội, tổ phụ chúng ta biết con cái lớn lên phải lập gia thất, nên mới lưu truyền món hương hỏa ấy. Lấy gia pháp làm chủ đích, gia pháp ấy biến ra gia nghiêm, mà gia nghiêm chặt chịa kềm thúc con cái chẳng có ư chi khác hơn là dụng oai quyền đó mà tạo một vị Chúa tương lai cho gia đ́nh, nên tổ phụ chúng ta trông nom điều trọng hệ ấy mà hủy bỏ cả hành tàng phụ thuộc ở ngoài là cả sự sanh hoạt của gia đ́nh, chỉ lo bảo thủ lấy tinh thần làm Cha tương lai cho đúng giá trị của nó.

Lạ chi đối với ṇi giống của chúng ta thường nghe mọi người nói: "Phụ có từ, tử mới hiếu" mà Bần Đạo đă nói rằng cả tánh đức của con người đứng đầu trên hết là hiếu, Bần Đạo cũng đă giảng, đời Thượng cổ người ta đi tầm hiền chỉ do nơi hiếu, nên Vua Nghiêu chọn ông Thuấn kế vị cho Ngài là v́ ông Thuấn là bậc chí hiếu, tánh đức hiếu ấy là cái năng lực căn bản của các tánh đức khác, nó là tánh đức của đạo đức tinh thần và nó đi gần tánh chất của loài người. Con người đă có hiếu th́ các tánh đức tốt đẹp khác đều là phụ thuộc, bởi v́ khởi đoan của tâm hiếu, không phải biến sanh một ngày, một bữa ǵ mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra làm căn bản môi giới cho các tánh đức khác nảy nở, mà ta đă thấy và định quyết rằng người đă làm được con hiếu th́ thế nào cũng sẽ là cha từ. Mà hạng phụ từ rất tối cần, tối trọng cho xă hội vậy.

Ấy vậy, trong gia đ́nh phải có phụ từ, mà tại sao cha phải từ? Phương ngôn nói: "Cha hiền sanh con thảo", lại có câu: "Hiếu thuận huờn sanh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch huờn sanh ngỗ nghịch nhi", sách xưa truyện cũ ta thấy c̣n lưu lại nhiều thành tích rất quí hóa. Đứa bé thơ kia học ai trước hết? Học cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó chưa có h́nh trạng ǵ, bởi lúc sơ sanh không có điều ǵ ô trược dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông vào ai, ḍm ai. Ḍm cha bắt chước cha, ḍm mẹ bắt chước mẹ, ḍm anh em bắt chước anh em. Trong gia đ́nh nếu có gương cha lành, th́ sự ấy huyền bí thay! Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu buổi sơ sanh, đứa con chưa biết nghe, hiểu thấu đáo cho thấu lư, nhiều khi cha mẹ dạy nó không tuân, Bần Đạo vẫn quả quyết rằng cái phụ giáo và mẫu giáo đó không mất, dầu đứa con có lơ lảng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán ấy, chúng ta không thể tưởng tượng được, khi cha mẹ khuất rồi, đứa con sẽ tiềm tàng cái giáo hóa buổi sơ sanh ấy làm căn gốc trong bản tâm của nó.

Làm người cha hiền không biết làm mất tự do của con, trái lại c̣n trọng nữa, trong xă hội chúng ta như vậy đó. Đừng thấy h́nh trạng giáo hóa bề ngoài lấy nghiêm trị làm căn bản mà gọi rằng đối với ṇi giống chúng ta cha mẹ áp chế con làm mất tự do của nó. Không phải như vậy đâu! Có lẽ v́ nh́n thấy Tông đường hư hoại, nên cha mới nghiêm trị con, đặng bảo thủ tương lai của Tông đường, chớ chẳng phải cố làm cho mất quyền tự do của con.

Bần Đạo giảng tích này cho cả thảy nghe mà suy gẫm, th́ thấy ṇi giống chúng ta vốn trọng sự tự do của con cái mà trọng một cách khéo léo.

Đời Tiền Lê có ông Thừa Tướng đầu triều không có con. Hai ông bà thường đến chùa này miễu kia cầu tự. "Nhơn hữu thiện niệm, thiên tất tùng chi", nên bà vợ hạ sanh được một đứa con trai. Quan Thừa Tướng đă niên cao kỷ trưởng mà có một đứa con trai th́ nỗi mừng vui đó không thể luận được. Người Nam ḿnh hay ví trứng mỏng cũng không ví bằng cậu công tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong gia đ́nh đối với cậu th́ ai cũng là tôi đ̣i nô lệ hết. Hai ông bà cưng đáo để, lớn lên rồi hễ thấy cưng lại thêm nhỏng nhẻo, rồi du côn, rồi hoang đàng chi địa vô giáo dục. Tấn tuồng xảy ra như vậy mà quan Thừa Tướng và phu nhân cũng không dám động tới, v́ quá cưng th́ c̣n ai dám động tới cậu nữa đâu, cậu muốn lên trời hay xuống đất ǵ cũng được.

Đến tuổi đi học, cho vào trường th́ không ai chịu nổi, con các quan bị cậu đánh luôn, ngày nào cũng có mắng vốn. Thấy t́nh trạng như vậy, biết con ḿnh bị cưng quá không ai động tới được. Đến khi trưởng thành 17, 18 tuổi, ôi thôi thanh lâu, tửu quán, trà đ́nh, cờ bạc, không món nào mà cậu không có, ngoài ra c̣n du côn, du đảng, ai thấy gia đ́nh ấy mà không nói rằng do căn trước tạo nhiều quả nên nay phải thống khổ tinh thần như vậy. Nhưng ông bà cũng vẫn cưng không động ǵ tới cậu công tử cả, ông chỉ buồn than nói với ông bạn là quan H́nh Bộ Thượng Thơ rằng:"Tôi có một đứa con mà con cầu, con khẩn nên nay mới ra cớ đổi", th́ ông bạn nói: "Thưa quan Thừa Tướng, nếu Ngài giao quyền trọn vẹn cho tôi đem lịnh lang về ở với tôi đặng tôi giáo hóa thử coi". Quan Thừa Tướng đă hết phương rồi, nên giao cho ông bạn dạy dỗ cũng không được ǵ hết, cậu công tử vẫn c̣n buông lung điếm đàng hơn nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị, mới cho quan Thừa Tướng hay: "Tôi phải dụng quyền đối với lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu Ngài vui ḷng như vậy, tôi mới sửa lịnh lang đặng". Quan Thừa Tướng chịu: "Bạn làm sao giúp tôi được th́ làm, v́ tôi cùng đường hết kế rồi". Quan H́nh Bộ Thượng Thơ thả cho cậu công tử ra ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thứ, rồi bắt bỏ tù, lên án như các tội nhơn khác vậy. Vô khám cậu bị đánh khảo tra tấn chịu không thấu, thông tin về nhà cho Thừa Tướng hay. Ngài làm như tuồng cha đau ḷng v́ con, ra chịu tội trước triều đ́nh, rồi Ngài và quan H́nh Bộ Thượng Thơ đến người nầy người nọ xin tha thứ, đi tới đâu dắt công tử theo tới đó, cậu thấy khổ trạng như vậy nên lương tâm tự hối, biết tội ḿnh làm để lụy đến cha dường ấy.

Về nhà ông rước thầy cho đi học thêm nữa, v́ cậu đă biết ăn năn, sợ cha mẹ và chịu ở nhà không dám phóng túng chơi bời nữa. Nhưng, trong gia đ́nh cũng không chiều được cậu chỉ kiêng có cha mẹ thôi, ngoài ra không kể ai cả, nổi giận là cậu đánh đập liền. Ông mới tính một phương thế, lấy cớ là con nhà trâm anh, bắt cậu để móng tay, từ đó cậu ít đi ra ngoài chơi bời, mà cũng hết đánh thiên hạ nữa, là v́ cũng bị lật móng tay hai ba lần ǵ đó, nên hoảng mà thuần nết lại. Đến khi triều đ́nh mở khoa mục, cậu nhờ trí thông minh sáng suốt lạ thường lại học giỏi nên được chấm đậu Trạng Nguyên. Nhà vua và cả mọi người biết tánh đức của cậu trước như vậy mà nay được như vầy th́ ai cũng mừng, trong gia đ́nh c̣n mừng hơn nữa. Thiết lễ Tân quan, khi vị Tân quan vào bái lễ Từ đường, rồi trở ra hội yến với các quan, quan Thừa Tướng mới kêu con lại nói: "Ngày nay con đă vinh hiển rồi sẽ ra làm quan th́ móng tay con không để làm chi nữa, con đưa đây cho cha", ông cắt tử tế, đem vào bàn thờ Từ đường, lấy giấy đỏ gói lại, bao ở ngoài một lớp hàng đỏ nữa, đề bốn chữ "Trấn tâm chi bửu" nghĩa là của báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con và dạy rằng: "Từ đây trở đi hoặc sau nầy con có kế chí cha làm đến đầu triều, vật trấn tâm chi bửu này cũng không nên rời con". Th́ y như vậy, từ đó về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đến đầu triều, mà cái gói trấn tâm chi bửu tức là móng tay đó vẫn c̣n luôn.

Bần Đạo dám cả gan nói rằng: Nhờ cái phụ giáo như vậy, mà triều chánh Việt Nam ta mới bền bĩ, và chắc chắn rằng người đó là kẻ đem viên đá đầu tiên xây nền độc lập từ trước đến giờ, nhờ cái tinh thần đó mà chúng ta đạt được tinh thần độc lập ngày nay.

Phụ giáo rất cao kỳ quư hóa. Nếu xét tường tận như vậy th́ ta chưa đáng phận làm chúa gia đ́nh. Trước khi tạo gia đ́nh, cần suy gẫm coi ta có xứng đáng làm chúa làm nội tướng chăng rồi sẽ tạo, cả khuôn khổ tốt đẹp ṇi giống chúng ta đă xao lăng, nào giục tấn, nào cấp tiến, nào văn minh, nào duy tân đáo để thôi. Tấn tuồng duy tân vật chất đưa đến tồi phong bại tục, hiện giờ là hoàn thuốc quá độc hại vậy.

Phong hóa tốt đẹp bị bôi dơ, hỏi vậy chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh thần mà đă biết như vậy th́ nên bỏ hay là phải cố thủ? Phải bảo thủ cái thể chất toàn hảo ấy là điều Chí Tôn mong muốn hơn hết. Ngài không nỡ nói ra, mà Ngài trông cho chúng ta biết phục hồi cái phong hóa của Tổ phụ lưu lại, đặng tạo một văn hóa tương lai cho toàn thể mặt địa cầu nầy vậy.

Nếu Ngài nói ra th́ ṇi giống Việt Nam sẽ nói là Ngài thủ cựu hay là muốn phá hoại sự tự do của loài người và đời văn minh vật chất này không thể không chỉ trích Chí Tôn với lời lẽ ấy, nên Ngài không nói đó vậy.


 

24- PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG TỘC KHÁC. (t.t.)

 

Tại Đền Thánh, đêm 23 tháng 5 năm Mậu Tư (1948)

 

Hôm nay Bần Đạo tiếp tục khảo cứu nền phong hóa của chủng tộc Việt Nam đối với các chủng tộc khác.

Bần Đạo đă giảng rơ về đạo làm cha trong xă hội của chúng ta đă tạo thành một nền phong hóa đặc sắc của ṇi giống như thế nào rồi. Vậy, Bần Đạo lần lượt giảng tiếp về cái quyền của cha. Bần Đạo giảng về đạo và quyền của cha trước rồi sẽ giảng về đạo và quyền của chủ, sau chót mới đến đạo và quyền của nhà vua tức là chúa.

Ai cũng biết điều trọng yếu trong xă hội Việt Nam ta là Tổ phụ là nguồn cội của các Tôn giáo, nên từ Thượng cổ Tổ phụ ta đă lưu lại cho ṇi giống ta cái cảnh tượng là biết tôn trọng Cửu Huyền Thất Tổ, dầu quá văng hay hiện tiền cũng vậy, sự sùng thượng ấy c̣n tồn tại trong tâm hồn măi thôi, chẳng hề khi nào quên ông bà của chúng ta được. Nên Tôn giáo chơn thật ấy nó buộc vạn quốc nh́n nhận là một Tôn giáo đặc sắc của một sắc dân chơn thật hơn hết. Thế th́ đạo nhơn luân của chúng ta là do truyền nối hương hỏa của Cửu Huyền Thất Tổ đó vậy. Ta chẳng c̣n luận chi sâu xa hơn nữa, chỉ nói cái nợ máu thịt mà ṇi giống Việt Nam nầy xem mắc hơn các ṇi giống khác trên mặt địa cầu nầy. V́ bởi Tiên Nho chúng ta đă lưu lại một lư thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cảm (cầm?)(*1) tâm lư của ṇi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại". Trọng hệ hơn hết của nền quốc giáo Việt Nam ta, là vô hậu kế đại, tức nhiên thêm vào cái nợ máu thịt mà ông bà ta để lại, nếu không đương nỗi th́ phải chịu thất hiếu với cả Tông tộc, Cửu Huyền Thất Tổ. Thất hiếu trọn vẹn, mà đă thất hiếu rồi th́ buổi tương lai về cơi Hư Linh không ngó mặt ông bà ta đặng. V́ cớ, nên việc hôn nhân nơi nước ta có vẻ nghiêm khắc, truyền lại làm căn bản Tôn giáo trong nước, dùng khuôn khổ trọng nghiêm ấy đặng định luật, th́ ta chẳng c̣n ngạc nhiên, hỏi bởi cớ sao luật nhơn luân lại gắt gao như vậy?

Xưa kia hễ định luật hôn phối với nhau thành chồng vợ rồi th́ chủ hướng duy có một điều là nối truyền hương hỏa. Tiếng tục thường nói rằng: "Dài ḍng cả họ", nên Tông tộc nào dài ḍng cả họ th́ hạnh phúc đáo để, trước phong hóa mà được dài ḍng cả họ th́ được tôn trọng vô đối, tức nhiên buộc đạo nhơn luân phải gắt gao; khi cưới vợ ba năm mà không sanh con trai nối hậu th́ đàng trai đặng phép để bỏ và lập thứ. Tại sao? Nếu người đàn ông cả gan v́ thương vợ mà không chịu để bỏ th́ mang tội bất hiếu với Cửu Huyền Thất Tổ, với cha mẹ kia ḱa.

Thấy đạo nhơn luân của chúng ta trọng yếu dường ấy, mà hễ trọng yếu tức nhiên quyền cha vẫn là cái oai quyền cao trọng, quyền cha trong phong hóa chúng ta, nếu con bất hiếu có thể lên án tử h́nh được, lên án với luật pháp hữu định, bởi vậy nên Tổ phụ ta nói: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu", ấy là luật nhơn luân của ta như vậy đó.

Đối với các quốc gia, các ṇi giống khác, nếu có công kích th́ họ nói đó là làm mất quyền tự do, mất nhơn phẩm của con. Bần Đạo dám chắc rằng họ thèm thuồng lắm mà họ làm không được v́ t́nh trạng phong hóa của ta, các nước Âu Châu không thế đối đặng. Bần Đạo giảng về cái quyền cha mà chính mắt Bần Đạo trông thấy hiển nhiên là khi Bần Đạo mới ra trường đi làm việc, đổi xuống Cái Nhum, có ông Kế Hiền ở làng Chánh An, tên là Kế Hiền Kỷ làm một vị Trưởng tộc trong Tông đường, niên kỷ độ lối 55 tuổi.(*)

Khi ấy trong nhà thờ Tông đường làm lễ cúng ông Cao Tằng ǵ đó, mà lệ trong ḍng họ, người nào đến giờ tế tự mà vắng mặt th́ năm đó mất phần hương hỏa. Sự nghiêm trị rất nhẹ nhàng nhưng mực thước, nên kẻ nào trong năm đó bị phạt ắt cất đầu không nổi, rồi chỉ có khóc lóc lén lút vậy thôi nên cả thảy đều phải đến. Bần Đạo tọc mạch theo coi nghe tiếng đồn mà đến, chớ trong Tông đường của Bần Đạo gia phong th́ lại khác. Bởi biết ông Kế Hiền Kỷ c̣n theo Nho lắm, trong lúc ấy Bần Đạo ngạc nhiên thấy trong con cháu, dầu nhỏ, dầu lớn, dầu trọng, dầu khinh, mỗi đứa đều đem tới một món, đi thôi rần rộ, độ 7 giờ cúng th́ lối 5 giờ đi rước ông Trưởng tộc, các con cháu xúm khiêng ông, ba bốn chục người giành mà khiêng, c̣n bao nhiêu đi theo sau kiệu, tới nhà thờ làm lễ nghinh tiếp, ôi thôi! Bần Đạo tưởng nhà Vua cũng không bằng. Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem bộ áo của ông cố hay ông sơ ǵ đó mặc vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy. Bần Đạo tưởng tượng đó là ông Vua, ông Chúa của gia đ́nh rơ ràng như vậy.

C̣n nếu biết ông trị nghiêm trong Tông đường thế nào th́ lại càng cảm mến hơn nữa, v́ bởi từ thử chưa hề có một con cháu nhà nào đem nhau tới làng mà kiện thưa một việc chi cả, gia luật thật đáo để đẹp đẽ và nghiêm khắc, như thế mà đă năm sáu đời truyền kế. Tộc phái không kể Nội Ngoại ǵ cũng kế nghiệp được. Trong Tộc phái ấy có một bộ Tông chi không sót một tên nào mà vẫn c̣n giữ vĩnh cửu luôn. Ngày giờ nầy các nước ngoại quốc kia nói nhà Nam ta bảo thủ cổ tục ấy, hỏi có ai làm đặng vậy chưa? Nếu có được th́ một phần ít thôi, mà cũng không có nữa. Tại sao? Tại tiêm nhiểm văn hóa Âu Châu rồi đem của quư liệng đi hốt của bỏ đem vào, tinh thần đă thành ra bạc nhược, thô bỉ, chạy theo thuyết duy vật của văn minh vật chất, quên hẳn khuôn khổ Tổ nghiệp ta để lại rất đẹp đẽ vô cùng, thâu thập những vật không đáng giá, làm xáo trộn nền phong hóa tận thiện tận mỹ. Hỏi thử ngày giờ gần đây ta thấy cái hại trong nước là tại làm sao chăng? Cả đạo nhơn luân điên đảo, biểu sao không trộm cướp loạn lạc, giặc giă tứ tung cho được!

Nền đạo nhơn luân có đủ năng lực bảo trọng tương lai quốc vận lại đem bỏ đi, lấy cái hoàn thuốc độc của thiên hạ đưa cho, đă thiệt tḥi mà cũng c̣n rán trướng cổ lên mà nuốt, nuốt cho chết.

Quyền hạn của chúng ta, ngày nào chưa bảo thủ cho toàn dân tộc được th́ đừng mong ǵ vĩnh cửu. Trái lại cần phải tô điểm Nam phong do tinh thần Tổ phụ ta để lại làm căn bản mới đủ sức mạnh, đủ cường liệt đứng đợt với toàn cầu vạn quốc. Bằng chẳng vậy th́ đừng mong sớm hưởng, c̣n xa vời lắm.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 23-08-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 29-06-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 3: Ai cũng biết điều trọng yếu trong xă hội Việt Nam ta là Tổ phụ là nguồn cội của các Tôn giáo,... ... ... V́ bởi Tiên Nho chúng ta đă lưu lại một lư thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cảm (cầm?) tâm lư của ṇi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại".
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Ai cũng biết điều trọng yếu trong xă hội Việt Nam ta là Tổ phụ là nguồn cội của các Tôn giáo,... ... ... V́ bởi Tiên Nho chúng ta đă lưu lại một lư thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cầm tâm lư của ṇi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại".
Cuối những đoạn có dấu (*): Để cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.


 

25- PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG TỘC KHÁC. (t.t.)

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 1 tháng 6 năm Mậu Tư (dl. 07-07-1948)

 

Chúng ta hôm nay tiếp tục khảo cứu nền phong hóa của nước nhà ta đối với các dân tộc toàn thiên hạ.

Bần Đạo đă giảng về chủ quyền thứ ba của xă hội chúng ta, gọi là quyền giáo sư thứ ba theo Đạo Nho mà vị chủ quyền về đạo nhơn luân hay là chủ quyền về gia đ́nh ấy tức là ông cha. Bần Đạo đă giảng về đạo và quyền của người rồi, bây giờ tiếp giảng về ông chủ quyền thứ nh́ của xă hội.(*)

Ông chủ quyền thứ nh́ mà cũng là giáo sư văn minh Nho Giáo là ông Chủ của Hương đảng. Bần Đạo đă nói chức Đại Hương Cả hay Kế Hiền là mới bày đặt sau này, chớ Nho Giáo chỉ định tới Hương Chủ là hết. Ta thấy rằng vị đó cầm quyền hương thôn, mà thật ra người cũng là chủ quyền của xă hội. Ta để tâm nghiên cứu coi cái phong hóa của đệ nhị chủ quyền nắm đó ra thế nào? Bần Đạo xin nói trước rằng nó tốt đẹp không ǵ b́ đặng, hại thay! Ngày giờ này v́ quốc dân xu hướng theo văn minh tân thời mà muốn phế bỏ hủy hoại và cũng do bởi cớ mà Đức Thanh Sơn để câu thi tự hào rằng:

"Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng công?"

Nền văn hóa đạt được trải qua bốn ngàn (4.000) năm, không cần ai dâng công tạo văn hiến khác.

Đạo của vị chủ Hương đảng là coi sóc sự sanh hoạt của dân chúng trong thôn hương, chẳng những nắm chủ quyền sự sanh hoạt mà c̣n nắm chủ quyền sự chết sống, cầm vận mạng cả thôn hương trong tay nữa. Đạo của người là Đạo thường, lo phụng thờ tôn miếu của triều đ́nh. Các đ́nh làng đương nhiên là Công thần miếu, thờ những vị Công thần bất kỳ nơi nào trong thôn quê đă xuất hiện những vị trung quân ái quốc, vị quốc vong xu, tô điểm giang san, binh vực lợi quyền của xă hội; có công vĩ đại với triều đ́nh, đến khi qui liễu được nhà Vua ân tứ phong cho Thần vị. Điều hay hơn hết là vị Công thần đạt vị đó, lại được trong bổn thôn sanh quán của người thờ người. Sự khéo léo ta thấy hiển nhiên, v́ cớ vị Hương Chủ trong thôn hương cần nhứt tạo hiền tài; nào là lập trường học, bố thí kẻ côi cúc không phương học vấn, nào là nâng đỡ các gia đ́nh hữu học. Khi đạt đặng khoa mục, khỏi làm xâu, bởi gọi hàng khóa sĩ. Bần Đạo xin nói rằng chưa nước nào đă làm như nước Nam ta, khi xuất sĩ vị Tân khoa về quê gọi là bái tổ vinh qui, lạy tạ mồ mă Tông đường; ngày đó chẳng cần tả, sự vinh hiển vô đối của họ, nên phương pháp ấy giục tâm toàn quốc cố học, học đặng hành.(*)

Hại thay! Trong thôn hương nhiều nhặt nhiệm nên cũng có sự hay mà cũng có sự dở, là kẻ nào bất tài thiếu học, hay có tánh chất hèn kém, không đủ tinh thần tế thế an bang; làm cục bướu của xă hội, nếu kẻ ấy không lập thân danh đặng th́ duy có trốn mà đi chớ không dám ở trong làng ḿnh nữa. V́ cớ cả quốc dân nong nả học hành, chẳng phải học để lập thân danh mà thôi chỉ thấy khuôn khổ nghiêm nghị, d́u dắt chủ hướng người quân tử dù tánh đức tiểu nhơn mà ở trong làng cũng phải sửa nết lại.

Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên theo đàng cựu th́ trích đất quốc gia làm công điền; hồi cựu trào số đất công điền trong các đất đai của làng rất thặng, v́ thuở ấy dân chưa có gia nghiệp tư bản. Những đất hoang vu, ông Hương Chủ khai mở thành công điền, toàn thể dân đinh buộc họ duy có làm xâu mà thôi, mà chẳng phải làm xâu như bây giờ, người nào có làm xâu th́ số lúa tư sản của ḿnh được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa tư bản (sản?)(*1) của ḿnh đó. Số sản xuất những công điền ấy chia làm ba phần: Hai phần ba (2/3) để vào công nho làng, một phần ba (1/3) nạp cho triều chánh của nhà Vua, nên không có lấy thuế bằng tiền bạc. Nhà Vua buổi nọ muốn thưởng công các quan duy có đong lương mà thôi, vị nào cao cấp mấy hộc, trung cấp mấy hộc, hạ cấp mấy hộc; ngoài ra lương ấy nhà Vua có phương pháp kêu là ban thưởng đặc biệt về công nghiệp vĩ đại, ân tứ cho ngựa bốn cặp, sáu cặp hay mười cặp, hay xe đôi chục, năm chục mà thôi, sự khéo léo của quốc gia là giục tâm cho dân cày cấy, ngoài ra sự chăn nuôi súc vật, rồi v́ sau nầy việc canh điền nặng nề th́ lại bày ra việc thưởng trâu ḅ thay thế cho đầu ngựa. Ngày xưa làm quan không ăn tiền chỉ lănh lương nên tiếng tục gọi là "ăn lương" là vậy.

Một phần ba số lương triều chánh thâu vào th́ nhà Vua dùng phát lương cho các quan, năm nào đặng mùa dư dă th́ làm kho dự trữ, nơi các Hương đảng cũng đều phải vậy. Thảng như rủi năm nào thất bác, dân đói khó, th́ lập tức mở kho ấy phát cho dân gọi là chẩn bần, mà đầu tiên đứng ra tế chẩn là ông Hương Chủ, khởi phát ở kho lúa của làng trước, khi nào thiếu mới lấy thêm ở kho quốc gia.(*)

Sự nong nả chẳng phải t́m phương cho dân cày cấy ruộng nương mà thôi, phải khuyến khích chăn nuôi súc vật, khuếch trương các tiểu công nghệ trong làng, thúc giục dân nuôi tầm dệt vải làm tơ lụa, các nghề thợ mộc, thợ rèn và các kỹ nghệ nào hay khéo mà dân sở tại làm đặng, quyền ấy là quyền của ông Chủ Hương đảng, c̣n Ban Hội Tề, Hương Sư, Hương Hào, v.v... đều là phụ thuộc vào triều chánh của ông Hương Chủ mà thôi.

Cái Đạo của vị Hương Chủ là thờ Công thần, mà là thờ mạng sống của toàn dân trong hương nữa, nên cổ tục ấy lưu truyền đến ngày hôm nay, sống cũng phải lo cho dân, mà chết cũng phải lo cho dân. V́ cớ đồ âm công phải có sẵn. Hồi cựu trào bất kỳ hạng nào, dầu là một vị quan hồi hưu về ở trong làng cũng vậy, hễ khi có một đám tử, người dân của làng đă được định làm nhưng quan, th́ bắt khiêng đám cũng phải đi, không ai khỏi đặng.

Lại nữa, chẳng phải lo việc chết thôi, c̣n phải lập nhà thương, nhà nuôi trẻ em, trường học, cả cái khuôn khổ văn minh hương đảng lưu lại ngày nay là do nơi chủ quyền của Hương Chủ mà ra vậy.

Hồi lúc Bần Đạo c̣n nhỏ, nhớ nhứt là khi xay lương và giả lương, hễ lúa đem về kho rồi th́ dân làng nhứt là phụ nữ, xúm lại giả cho trắng đặng nạp về triều kêu là nạp lương, tục ấy mới bỏ trong thời gần đây. Mà xay lương thôi th́ đô hội, mệt nhọc mà vui vẻ lạ lùng. Không thể nói hết đặng, câu ḥ, câu hát c̣n lưu lại trong dân gian ngày hôm nay là do nguyên cội xay lương đó. Xay giả xong, 1/3 nộp cho triều đ́nh, 2/3 để cho hương đảng.

C̣n một điều nữa là ở trong làng hễ có người nghèo khổ cơ hàn, th́ Hương Chủ dạy toàn dân làng phải bảo vệ, hễ cưới vợ không được th́ xúm nhau chung tiền lại giúp, cất nhà không nổi th́ xúm nhau tạo nhà cho, khi có bịnh hoạn th́ xúm nhau đến thăm viếng và giúp đỡ, t́nh liên lạc mật thiết như cốt nhục, mà khuôn tuồng đó ngày nay đă mất rồi, v́ chưng tư lợi tư kỷ nhiều quá mà làm cho tiêu diệt hết ḷng tương ái tương thân trong hương đảng.

Ta thử nghĩ lại, một ông chủ cầm quyền xă hội dường đó, chánh sách c̣n bằng mấy Cộng sản, mà là Cộng sản tinh thần, nên Quốc gia chúng ta có Cộng sản thúc nhặt tâm lư làm khuôn phong hóa chung sống cùng nhau, không cướp bóc, không tranh quyền đoạt vị. Ở trong làng, quyền làm chủ hương thôn ấy chỉ có truyền biểu mà thôi, dầu trong triều về đó ở mà dân không tín nhiệm th́ cũng không có quyền ǵ buộc dân đem ḿnh lên đặng. Phần nhiều triều chánh sau nầy mới có tham quan ô lại, chớ thời xưa một người làm quan rất sợ điều đó lắm, là v́ hễ đă mang danh tham quan rồi th́ về làng không ở với ai được, cả làng mạt sát chịu không nổi, cho nên cả cái bí pháp hằng tâm ǵn giữ rất nhặt nhiệm, kẻo buổi về già không chịu nổi sự trích điểm của thôn lân, được vinh quang chừng nào th́ lại càng giữ ǵn tánh đức. Trong làng mà vị nào v́ dân, lo cho dân, đủ tánh đức nuôi dạy dân, thương dân như con đỏ th́ dân sanh cử lên, chớ không phải bầu cử hốt mớ, rồi đưa kẻ bất tài thất đức lên được, v́ trong triều chánh của ông Hương Chủ, ở dưới có Ban Hội Tề, đi từ mức đào luyện từ cấp, rồi mới lên đến Hương Chủ th́ đă sáng suốt mực thước lắm rồi.

Ngoài ra nữa, c̣n một điều là trong hương đảng coi chủ quyền ấy như ông Ṭa, đến bây giờ c̣n chức tước mà quyền không phải vậy. Ông chủ của làng làm Ṭa xử, ḥa giải dân t́nh, nên không có tụng cáo ra triều đ́nh bao giờ, hay là trừ các án tiết trọng hệ, như cường đồ, sát mạng, mới thấu đến luật h́nh triều chánh. Trong làng có điều ǵ chinh tâm với nhau th́ ông chủ của làng xử trước, nếu bất đồng đem nội vụ ra nhà việc, hễ lỗi nhỏ th́ nạp tiền câu tra, tội lớn th́ căng nọc đánh giữa dân làng, không đến nỗi chết mà hễ bị đánh rồi th́ về nhà c̣n có nước trốn đi nơi khác, hoặc đóng cửa đi đâu đi lén lút khổ năo lắm v́ bị gièm pha nhạo báng xấu hổ chịu không nổi. C̣n nói về phụ nữ nhứt là gia đ́nh nào con hát bè, hát bộ, th́ có dọn mà đi luôn. Đến nghiêm luật gái chửa hoang, đẻ lạnh th́ cha ông, con cháu, đều bị đ̣i ra giữa làng hết thảy. Thứ vợ hổn với chồng, chồng hiếp vợ, con bất hiếu, em vô lễ với anh cũng vậy, đặng giữ nghiêm phong hóa xă hội do khởi đoan từ hương đảng ra quốc gia xă hội.

Triều đ́nh cốt yếu làm đầu đặng nắm giềng mối, chớ thật ra cầm quyền xă hội là trong hương đảng, mà quyền trong hương đảng là của Đệ Nhị chủ quyền, tức là quyền ông Hương Chủ đó vậy.

 

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 8: Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên theo đàng cựu th́ trích đất quốc gia làm công điền; ... ... ... , người nào có làm xâu th́ số lúa tư sản của ḿnh được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa tư bản (sản?) của ḿnh đó....
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên theo đàng cựu th́ trích đất quốc gia làm công điền; ... ... ... , người nào có làm xâu th́ số lúa tư sản của ḿnh được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa tư sản của ḿnh đó....
Cuối những đoạn có dấu (*): Để cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.


 

26- PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC TRONG HƯƠNG THÔN VIỆT NAM.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 5 tháng 6 năm Mậu Tư (dl. 11-07-1948)

 

Kỳ trước, Bần Đạo đă giảng về đạo của vị chủ quyền xă hội chúng ta là ông chủ, nay tiếp thuyết về phương pháp tổ chức xă hội ta trong hương thôn là thế nào và ai cầm quyền ấy.(*)

Ta đă thấy Nho Đạo ta lấy gia đ́nh làm căn bản, bước từ tiểu gia đ́nh là gia tộc lên đại gia đ́nh là quốc gia, lại thấy sự khéo léo trong gia đ́nh là phương pháp thực hành. Các phần tử trong gia tộc hiệp lại thành Tông đường, một gia tộc nào đủ nhơn nghĩa đạo đức th́ Tông đường đó, để mắt nong nả cho có đủ phương pháp thi thố cả sở năng của ḿnh, bởi chỉ trông cậy nơi ḿnh làm cho gia đ́nh đứng đợt được với thiên hạ một cách vinh diệu, mà hễ Tông đường được vinh diệu, tức nhiên người đại diện cho Tông đường ấy khi ra thay mặt cho Tông đường, đă đào luyện trí thức tinh thần, sở năng, sở kiến, đặng thay thế Tông đường cho xứng đáng trước luật quan phép nước. Trong hoàn cảnh kiến thiết xă hội là vậy. Làm đầu Tông đường được, tức nhiên trong hương đảng đă để dành địa vị cho danh thể cao trọng ấy rồi, thanh niên th́ vào hàng thành đinh, niên kỷ cao trưởng th́ vào hàng kỳ lăo, lănh kiến thiết hương đảng, không bỏ một ai. Tuy vậy, Ban Hội Tề có đông đảo mặc dầu, nhưng Bần Đạo đă nói rằng Hội Tề bất quá là triều chính của Đệ Nhị chủ quyền là ông Hương Chủ trong hương đảng vậy thôi.

Ấy vậy, trong hương thôn có mặt nào đứng đợt làm đầu hương thôn, mặt ấy không lẽ triều chính không biết đặng, nên danh nghĩa trong hương đảng liên quan mật thiết với triều đ́nh, mà hễ có liên quan tức nhiên là địa vị triều đ́nh sẽ dành để cho người cầm quyền hương đảng đó vậy.

Tổ chức xă hội chúng ta đi từ tiểu gia đ́nh lên đại gia đ́nh là quốc gia, v́ cớ nên Tiên Nho chúng ta, dầu cho Đệ Tam quyền là ông Cha trong gia đ́nh, mà có tội đem ra giữa triều chánh buộc tội là trị đạo bất nghiêm, c̣n Đệ Nhị chủ quyền lại là trị dân không nghiêm cũng gọi là trị đạo bất nghiêm. H́nh phạt nặng nề sẽ định án cho hai chủ quyền Đệ Nhị và Đệ Tam đó không phương chối căi.

Cái đạo, nói tiếng đạo, mà người cầm quyền trị đạo phải thật hành được đạo, đă không dễ, th́ cầm quyền trị đạo lại càng không dễ nữa. Phải làm thế nào thi thố cho dân sự trong bổn thôn thấy tâm Thánh của ḿnh là thay thế Đức Khổng Phu Tử làm cha mẹ dân, mà chẳng vậy thôi, c̣n cầm quyền làm thầy trong bổn thôn nữa mà chớ.

Tổ chức xă hội quốc gia chúng ta không mắc mỏ mà thật sự th́ khó đáo để. Thuở mà ṇi giống nầy c̣n kêu cha là bố và mẹ là cái, kẻ nào đạt được vị Bố Cái hương đảng, tức là cha mẹ của hương đảng, ấy là lời ban thưởng, tặng khen lớn lao lắm vậy, tức nhiên Đệ Nhị chủ quyền là quyền của vị Bố Cái hương đảng là vinh diệu hơn hết.

Ấy vậy, Đệ Nhị chủ quyền làm cha, làm thầy hương thôn, ta suy xét tưởng tượng xem phận sự ấy trọng yếu như thế nào? Coi dân như con đỏ, làng như cha mẹ dân thay thế cho triều đ́nh, mà muốn nên phận cha mẹ dân th́ vị chủ quyền đó không tư tâm, tư kỷ, hễ tư tâm tư kỷ tức bốc lột dân, trộm cướp của dân, hiếp bức dân. Ta thấy phương pháp đương nhiên, hiện giờ c̣n giữ khuôn khổ ấy, chỉ hại một điều là hương đảng đương nhiên xu hướng tân thời đă hết làm cha mẹ dân, dở thói tham quan ô lại, làm cục bướu làm mụt ghẻ tâm lư của dân. V́ cớ nên giá trị của Đệ Nhị chủ quyền không c̣n năng lực nữa, mà nếu không c̣n năng lực tức là hết cầm quyền chuyển tâm lư được, biểu thế nào ngăn cản được dân xu hướng theo văn minh mới, mà nhứt là ṇi giống Việt Nam nầy hay nghinh tân yểm cựu lắm. Nếu không đủ biệt tài cầm cái khối báu do Chí Tôn để lại mà trau giồi làm cho có giá trị cứ do theo điều mới mẻ ấy th́ chỉ có làm cha làm chủ bướng vậy thôi, nên cần phải biết sửa đương lại th́ xă hội này sẽ đứng đầu hơn hết. Tại ḿnh làm chủ mà không biết của báu, khinh miệt nên thiên hạ mới khinh miệt nó. Ấy vậy đương thời bây giờ thiên hạ không c̣n làm cha mẹ, bố cái hương đảng nữa, nên cái vinh diệu của Tiên Nho ta lưu lại đă bị bại hoại thành h́nh tướng dị hợm lắm rồi.

Vị chủ quyền hương đảng của nhà Nho ta, tuy là tư tưởng tinh thần rất đơn sơ, nhưng nói ít mà làm nhiều, nên vị Hương Chủ hồi cựu trào lănh làm chủ hương đảng th́ triều đ́nh phái một vị quan đến phong quyền cho và thường nói: "Triều chánh cầu xin một điều là vị Hương Chủ làm sao cho xứng đáng phận sự cha mẹ của dân".

Trước ta đă thấy quyền làm cha mẹ trong gia đ́nh khó khăn thế nào rồi, th́ vị Hương Chủ lên làm cha mẹ dân trong một làng, lời xưa thường gọi là bá tánh là v́ bởi nhiều Tông đường hiệp lại mới thành một làng. Nên việc làm cha mẹ dân trong một làng không phải dễ, dân đói phải lo, dân rách phải lo, dân khổ phải lo, một tên dân đau khổ th́ ông chủ quyền phải ở bên ḿnh như cha ở bên ḿnh con vậy, cha nâng đỡ danh thể làm cho con nên thế nào, th́ ông chủ quyền của hương thôn cũng phải làm nên cho dân thế ấy. Nghĩa là tâm lư của ông cha cầm quyền gia đ́nh trị con thế nào, th́ ông chủ cầm quyền hương lân trị dân cũng như cha trị con vậy.

Nếu từ trước đến giờ c̣n giữ được khuôn khổ tổ chức của tổ phụ để lại, th́ Bần Đạo tưởng chẳng hề thấy sự tồi phong đương nhiên, và cầm chắc sự thống khổ loạn lạc chẳng hề có đặng. Ngày hôm nay, phong hóa quốc gia xă hội ta không c̣n nguyên h́nh tướng nữa, đă thay đổi ra thô tục gớm ghiếc quá chừng.

Đức Lư Giáo Tông lập Bàn Trị Sự, Ngài lập chức Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự, rồi Ngài lại biểu Bần Đạo lập chức Thông Sự. Ngài nói Phó Trị Sự là Giáo Tông em, mà nơi làng có Giáo Tông em th́ tức nhiên phải có Hộ Pháp em là Thông Sự nữa chớ. Nếu sự tổ chức hương lân chưa phải cần yếu th́ Đức Lư đă không làm như vậy. Ngài đặt chức Chánh Trị Sự tức là ông Chủ, Đệ Nhị quyền trong thôn lân về phần Đạo, hỏi vậy mơ vọng của Đức Lư để Chánh Trị Sự làm ǵ? Đức Lư có ư đem qui cũ Đạo vào Đệ Nhị chủ quyền, đặng phục hồi lại y như trước. Ngài quyết định hơn nữa là để vị Chức Sắc ấy nắm quyền Hội Thánh tức là vào Thánh Thể của Đức Chí Tôn, nghĩa là dự định đặng lên Lễ Sanh, rồi lên Giáo Hữu, tức là vào hàng Thánh Thể đó vậy. Muốn chỉnh đốn xă hội lại, nên luôn dịp để một khuôn khổ trị Đạo cho dân sanh tỉnh giác, biết vật báu ấy mà ǵn giữ, tô điểm, làm cho xă hội thôn lân thêm xinh lịch. Ư muốn là vậy, mà thử hỏi Bàn Trị Sự toàn thể quốc gia ta ngày kia có đủ năng lực và đủ tinh thần đạo đức để chỉnh đốn xă hội ta trong hương thôn, lần lần sửa lại theo tổ chức tối cổ của quốc gia xă hội ta trước được không?

Bần Đạo dám chắc rằng Đạo Cao Đài làm đặng, và nhờ bàn tay của toàn thể quốc dân Việt Nam ta đó. Việc làm bất luận lâu hay mau, miễn đạt được th́ thôi, Bần Đạo sợ e một điều là đầu óc h́nh thể ta thấy trước mắt, thay v́ chỉnh đốn đi ngược trở lại khuôn cũ, rồi lại c̣n xu hướng theo tổ chức xă hội, làm diệt vong phong hóa; thay v́ cứu sống lại cái gia tài, lại làm tiêu cả sự tốt đẹp thọ hưởng đă bốn ngàn (4.000) năm nay c̣n noi lại. Bần Đạo mơ ước một điều là toàn con cái của Đức Chí Tôn trong hương thôn tức là Bàn Trị Sự, biết phận sự trọng yếu của ḿnh để đủ tinh thần làm vừa theo Thánh ư của Đức Lư Giáo Tông và Đức Chí Tôn. Bần Đạo mong mỏi cả thảy đem cái quư của Tổ phụ chúng ta lưu lại chỉnh đốn cho đẹp cho xinh đủ oai quyền năng lực, đặng ngày kia đem cho toàn các sắc dân khác đồ theo. Đương buổi này thiên hạ đương thống khổ tâm hồn, nếu họ thấy chánh sách của ta đạt được, họ sẽ lấy và đồ theo mà lấy trong tay Cao Đài họ không thẹn mặt.

Cả thảy nam nữ nhớ lời căn dặn, đặng khi thái b́nh trở lại, lo chỉnh đốn Bàn Trị Sự trong hương thôn, để làm nền móng tổ chức quốc gia ta sống lại đẹp đẽ mỹ măn và cường liệt, mà quốc gia ta có đẹp đẽ mỹ măn cường liệt th́ nhờ nơi hương đảng tạo ra; nếu mấy người tạo ra thô bỉ th́ sự kiến thiết cũng thô bỉ, hễ mấy người tạo ra đẹp đẽ th́ sự kiến thiết đẹp đẽ, mạnh mẽ v́ bởi khởi đầu đào tạo bằng hột giống mạnh, th́ cây lên mạnh, bằng hột giống yếu th́ cây sẽ lên yếu.

 

Phụ ghi:
Cuối những đoạn có dấu (*): Để cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.


 

27- ĐỆ NHỨT CHỦ QUYỀN CỦA XĂ HỘI VIỆT NAM.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 9 tháng 6 năm Mậu Tư (dl. 15-07-1948)

 

Đêm nay Bần Đạo giảng tiếp về đệ nhứt chủ quyền của xă hội chúng ta. Bần Đạo đă giảng kỳ rồi về đệ nhị chủ quyền tức là chủ quyền hương đảng, và đă giải rơ ràng cái phương pháp kiến thiết từ thử là lấy gia đ́nh làm căn bản. Tiểu gia đ́nh là trong một nhà liên quan với cả Tông đường gọi là họ, là tánh, trung gia đ́nh tức là tổ chức trong hương đảng của Đệ Nhị chủ quyền, tới Đệ Nhứt chủ quyền làm đầu một Đại gia đ́nh là một nước.

Ta đă tự hiểu Thánh ư của Đức Chí Tôn sanh ra ṇi giống chúng ta, và đă tạo cả tinh thần của ṇi giống chúng ta, không biết chừng d́u dắt tinh thần ấy để lập chánh kiến quốc gia, là lấy gia đ́nh làm căn bổn. Ta thấy rơ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đ́nh toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nếu (nên?)(*1) Ngài định trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn cho cả tinh thần đạo đức toàn nhơn loại, lấy cả quyền năng lập quốc cho nước Việt Nam, đặng làm khuôn mẫu chuẩn đích tương lai lập chánh trị toàn cầu thiên hạ mà chớ. Nếu không tự tôn, ta cũng nhận thấy rằng điều tưởng tượng ấy không lầm, bởi dầu muốn hay không, quyền năng vô h́nh cũng xô đuổi dục tấn các dân tộc vạn quốc phải đi đến sự chung hiệp vào đại gia đ́nh của toàn nhơn loại mà thôi.

Ấy vậy, Bần Đạo thuyết Đệ Nhứt chủ quyền do Tổ phụ chúng ta tổ chức và lưu lại trong văn hiến tức là nhà vua. Đệ Nhứt quyền là giáo sư, là ông cha của cả nước. Không lạ ǵ, chúng ta cũng thấy như ông cha trong tiểu gia đ́nh kia vậy. Đức Khổng Phu Tử nói: "Đạo trị dân không khác đạo trị gia đ́nh" ấy đạo của Ngài vậy. Chúng ta thấy trước khi lên cầm quyền v́ một sơn hà xă tắc, một nhà đương quyền tại vị, hay đă thoái vị cũng vậy, các v́ Vương Đế thường có nói nơi cửa miệng hoặc di chúc lại, bao giờ cũng mơ ước cho có người kế vị xứng đáng làm cha mẹ của nhơn dân bá tánh, văn hiến của ta tuy đơn sơ mà thâm thúy lắm là nói ít mà làm nhiều, và sự khó khăn trọng yếu chẳng thể tưởng tượng được.

Bần Đạo nhắc lại một lần nữa là buổi ṇi giống An Nam ta đây c̣n kêu cha là Bố, mẹ là Cái, mà vị Đế Vương nào lên cầm quyền được dân tặng là Bố Cái, như Bố Cái Đại Vương, th́ sự vinh hiển của triều chánh đó không luận đặng, mà sự vinh hiển của Đế Vương đó cũng chẳng tả được đối với ḷng dân. Nói ít làm nhiều. Văn hiến của ta do văn hiến của Tàu châm chế sửa chữa lại, lấy của người làm của ḿnh. Lấy căn bản chánh gốc của người ta mà làm của cải riêng của ḿnh với tư cách đặc biệt, tưởng không nước nào khéo léo hơn nước Việt Nam ta vậy.

Ta thấy lời một vị Đế Vương để lại cho con lên truyền kế cho ḿnh như Hớn Chiêu Liệt để lại Hậu Chúa, có câu căn dặn rằng: Nếu nhà cầm quyền nào mực thước trị dân, biết tùng theo th́ thiên hạ thái b́nh, quốc thới dân an, Hớn Chiêu Liệt sắc Hậu Chúa viết: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi" (nghĩa là ông Hớn Chiêu Liệt căn dặn con truyền kế rằng: Đừng thấy lành nhỏ gọi nhỏ mà không làm, đừng thấy ác nhỏ gọi nhỏ mà làm). V́ Đế Vương biết rằng trong tay cầm sanh mạng quốc gia, trị cả bá tánh để lại cho con một di ngôn bất hủ. Nếu cả các Đế Vương trên mặt địa cầu nầy, cầm sanh mạng quốc gia biết lấy câu ấy làm "trấn tâm chi bửu" cho ḿnh, Bần Đạo tưởng chắc, nếu thi hành cho đúng th́ cả quốc dân đó hạnh phúc vô cùng.(*)

Tổ phụ chúng ta muốn trong nước ta, dân ta, t́nh của Vua đối với dân thế nào cho mực thước, chơn thật như cha đối với con, nếu Vua đối được với dân như cha đối với con, tức nhiên lấy t́nh ái làm quyền hành, công chánh làm mực thước, tưởng không quốc gia nào trên mặt địa cầu nầy hưởng được hạnh phúc hơn nữa. Ta thấy tấn tuồng ly loạn do kẻ cầm quyền định vận mạng cho nước, cho dân chỉ biết ḿnh, không biết bá tánh. Thường nghe nói: "Thiên hạ vi gia" hại một điều tuy vậy nhà Vua ở với bá tánh như cha ở với con nên có câu "thiên hạ vi gia" vậy nhà Vua lấy thiên hạ làm nhà, thương dân như con đỏ, trái lại họ lấy thiên hạ làm tôi đ̣i của cải. Thay v́ coi thiên hạ như nhà như con, họ lại coi thiên hạ như nô lệ, tư nghiệp của ḿnh, tức là hiểu lầm khuôn khổ của Tiên Nho ta đă quyết định vậy.

Tổ chức thật khéo léo làm sao, chính nhà Vua cũng không thoát cái khuôn viên gia đ́nh. Nếu ngôi Vua truyền hiền th́ chẳng nói chi, từ khi các vị Đế Vương truyền tử đến giờ gia đ́nh vẫn ở bên cạnh họ, họ phải bảo trọng gia đ́nh trước nhứt, bởi gia đ́nh của họ là Đệ Nhứt gia đ́nh trong quốc gia. Ta thấy từ khi các quốc gia nầy chẳng chịu ảnh hưởng của Nho Tông mà lập quốc, đă trở nên suy đồi bởi nguyên căn nào, do trị gia bất nghiêm! Cho nên cổ truyền tai hại hơn hết là cái loạn trong cung tần, trong ṿng hoàng tộc mà sản xuất, đă hiển nhiên như vậy không chối căi được. Các v́ Vua trị gia bất nghiêm, biểu không bại hoại sao được, mà Đệ Nhứt gia đ́nh thất đạo có liên quan mật thiết đến cả toàn bá tánh thất đạo.(*)

Nhà Vua cốt yếu coi bá tánh như con đỏ, coi nước nhà như đại gia đ́nh, giữ đạo nhơn luân làm trọng hệ, đă có quyền sanh sát, mà nếu quyền ấy không chuẩn thằng, biểu sao dân trong nước không thống khổ. Khi sự thống khổ ấy dân chịu đựng nổi chẳng nói chi, thảng như quá sức không chịu nổi được nữa, sanh loạn lên th́ triều chánh và cả nước nhà phải nghiêng đổ.

Sự kiến thiết quốc gia lấy gia đ́nh làm gốc, ta không thể chối rằng không biết gia đ́nh ấy hay là từ bỏ đạo nhơn luân, duy có theo lối vô thần th́ mới chối đạo nhơn luân đặng, nếu không chối đạo nhơn luân, tức không chối đạo gia đ́nh, mà không chối gia đ́nh th́ cũng không hề chối tương lai vận mạng của tổ quốc ḿnh được. Ấy vậy căn bản của phong hóa Việt Nam ta do nơi đạo nhơn luân, nơi gia đ́nh, dầu ai thuyết minh phong hóa như thế nào đi nữa nguyên căn tinh túy cũng vẫn do nơi gia đ́nh mà thôi; cho nên gia đ́nh, phân làm ba hạng: Hạ, trung và thượng gia đ́nh; thượng gia đ́nh là Quốc gia, trung gia đ́nh là Hương đảng, hạ gia đ́nh là Tông đường, không có chi là lạ, là khó, nhưng căn nguyên ấy ta không sửa đổi đặng bởi ba bực hạ, trung, thượng của cơ tấn hóa thế nào th́ gia đ́nh cũng thế ấy. Cả Càn Khôn có Thượng giái, Trung giái, Hạ giái, mặt luật thiên nhiên của sự tiến hóa trật tự ấy không thể tiêu hủy đặng.

Tổ chức xă hội của chúng ta khéo léo làm sao đâu, Bần Đạo dám chắc rằng cao thượng hơn hết. Hại thay! Quốc dân ôm của báu trong tay mà không biết quí trọng, liệng rồi chạy theo ăn mót đồ bỏ của thiên hạ, lấy làm của. Đức Chí Tôn đến đặng thức tỉnh nhơn sanh, nên mới có câu Ngài nói với nhà Vua: "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong" là thêm ư rằng: Tổ phụ chúng bây để lại cho bây một phong hóa, nó sẽ biến thành phong hóa của toàn nhơn loại vậy.

Ngài cho biết rằng chúng ta vốn có của báu, mà của báu ấy thiên hạ đang t́m kiếm đặng sống.

 

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 2:
Ta đă tự hiểu Thánh ư của Đức Chí Tôn sanh ra ṇi giống chúng ta, ... ... .... Ta thấy rơ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đ́nh toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nếu (nên?) Ngài định trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn cho cả tinh thần đạo đức toàn nhơn loại,...
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Ta đă tự hiểu Thánh ư của Đức Chí Tôn sanh ra ṇi giống chúng ta, ... ... .... Ta thấy rơ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đ́nh toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nên Ngài định trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn cho cả tinh thần đạo đức toàn nhơn loại,...
Cuối những đoạn có dấu (*): Để cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.


 

28- Ư NGHĨA VỀ "NHẠC TẤU HUÂN THIÊN".

 

Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ rằm tháng 4 năm Mậu Tư (dl. 23-05-1948)

 

Có điều mầu nhiệm nên nay Bần Đạo giảng về Lễ Nhạc để tránh sự thất lễ khi vô hành lễ, v́ không hiểu nghĩa lư, không biết thủ lễ theo phép cho y khuôn khổ khi "Nhạc tấu Huân Thiên".

Bên Á Đông, trong nền Đạo Cao Đài có trống, có chuông, c̣n bên Âu Châu có chuông mà không có trống là tại sao? Tại sao Á Đông dùng trống c̣n Âu Châu dùng chuông? Trống là âm thinh của Đạo.

Thuở chưa có Càn Khôn Vũ Trụ, Đạo giáo có dạy: Hai lằn ngươn khí đụng lại nổ ra khối lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái Cực. Chủ ngôi Thái Cực là Đức Chí Tôn. Khi nào trời sét nổ, chúng ta nghe sao? An Nam ḿnh kêu "ầm" c̣n theo Đạo Pháp kêu "ùm", v́ cớ phép Phật sửa lại là "úm": úm ma ni bát rị hồng. Câu ấy đọc có nghĩa là nắm cả quyền năng vũ trụ quản suất trong tay. Tiếng nổ ta nghe nó ra sao? Khi nổ rồi c̣n nghe tiếng bay xa, nguyên căn của tiếng nổ là tiếng trống, c̣n giọng ngân là tiếng chuông. Ấy vậy, nguyên căn của Đạo Giáo do bên Á Đông nầy, có tiếng trống ngân bay qua Âu Châu, nên các Đạo Giáo Âu Châu đều là hưởng ứng theo Phật Giáo mà Phật Giáo xuất hiện nơi Á Đông. V́ vậy mà các nền Tôn giáo phụ thuộc đều không đúng theo nguyên tắc căn bản.

C̣n tại sao khi vô làm lễ, lúc "Nhạc Tấu Huân Thiên" tức là lễ hiến dâng sự sống cho Đức Chí Tôn là Thầy của cả càn khôn vạn vật, Bần Đạo thường nhắc nhở tất cả phải đứng ngay ngắn, nghiêm chỉnh. Nhạc là hưởng ứng của cả khối sanh quang của càn khôn vạn vật đồng thinh. Nơi Á Đông có câu: "Biều thổ cách mộc thạch kim dử tư trước năi bát âm". Các vật vô năng mà nói đặng có trật tự niêm luật ḥa nhau là đạt Đạo, hiệp lại với tiếng kinh ḿnh đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến lễ. Nơi Ngọc Hư Cung có đôi liễn: "Bát hồn tư mặc ca Hoàng Lăo, vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn".

Khi nhạc trổi, cả thảy phải im lặng, hiến cả âm thinh sự bí mật ấy gọi là Phi-tướng-lễ chủ ư là tŕnh tấu với Đức Chí Tôn rằng: Các con biết được sự mầu nhiệm căn nguyên của Cha lành muốn cho các con nối nghiệp theo một khuôn phép trường tồn. Lễ đó trọng hệ như dâng Tam Bửu vậy. Bần Đạo dặn một lần nữa: Khi nào xướng "Nhạc tấu Huân Thiên" th́ phải đứng b́nh tịnh, người nào có vô không kịp th́ đứng ngoài mà thôi.


 

29- TÂN NỘI CÁC QUỐC GIA VIỆT NAM.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm 19 tháng 4 năm Mậu Tư (dl. 27-05-1948)

 

Ngày hôm nay là ngày của Nội Các Tân Chánh Phủ toàn quốc đến tại Hương Cảng, tŕnh danh sách cả Nội Các cho Đức Bảo Đại phê chuẩn.

Toàn Đạo đều hiểu rơ t́nh trạng hai năm nay, nước nhà và dân tộc Việt Nam đă chịu thống khổ dường nào. Họa nổi loạn khốc liệt thế nào, cả ṇi giống đổ máu vô lối dường bao, hỏi do tại đâu? Từ trước Tổ phụ chúng ta để lại một nền văn hóa, phong tục tối cổ, hiệp chúng ta lại thành Quốc gia. Tiên Nho cho rằng hoặc nhà vua, hoặc triều chánh, hoặc toàn dân của nước cầm quyền thống trị. Văn hóa tối cổ chúng ta từ trước có một khuôn luật: Giữ Đạo để trị nước. Hễ loạn lạc nước không b́nh phục đặng là do toàn quốc dân thất Đạo. Quốc gia Việt Nam thế nào th́ do nhơn loại trên mặt địa cầu nầy cũng thế đó.

Nạn loạn lạc hoàn cầu, Bần Đạo thuyết hôm qua chỉ rơ nguyên do nhơn loại thất đạo mà nảy sanh. Muốn cứu văn t́nh thế Tiên Nho buộc cả nhà vua và Triều chánh dĩ chí toàn dân phải ăn chay, nguyện, tế, gọi là lễ Nam Giao.

May thay Tân Chánh Phủ tức nhiên Tân Nội Các toàn quốc lại thấu đáo điều ấy, nên khi Bần Đạo ở Sài Thành, chính ḿnh Thủ Tướng Xuân đến nhà Bảo Sanh Quân cầu Bần Đạo xin hành lễ khẩn nguyện Đức Chí Tôn ban ân lành cho quốc dân Việt Nam. Đă biết hiểu cơ bí mật ấy tức nhiên chúng ta định họ học Đạo đặng. Một xa thơ đă bốn ngàn năm lịch sử đi đến giai đoạn khó khăn nguy hiểm, con đường qua rồi xa thơ quay bánh lăn tới đâu, chúng ta ḍm thấy toàn xương máu. Ngày nay đến đường vinh quang trước mắt, cần yếu toàn dân biết Đạo trọng hệ hơn là dường nào. Nhưng cả tâm đức của toàn quốc cố gắng tranh đấu cho tương lai, hạnh phúc của nước nhà là những tay nhứt định đẩy xa thơ ấy tiến măi mà thôi, mà được cùng chăng là do nơi tinh thần đạo đức của toàn quốc dân đó vậy.

Hôm nay, chúng ta v́ tương lai của tổ quốc đặt nén hương lên Thiên bàn thành khẩn Đức Chí Tôn ban ân cho Tân Chánh Phủ Việt Nam, ắt hẳn sẽ được thành công mỹ măn.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
Ngày dl. 27-05-1948 nhằm ngày (âl. 19-04-Mậu Tư) nguyên bản chánh in là: 19-05-Mậu Tư (dl. 27-05-1948).


 

30- VẬN MẠNG QUỐC DÂN VIỆT NAM.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm 28 tháng 4 năm Mậu Tư (dl. 05-06-1948)

 

Nội sáng mai nầy là ngày định vận mạng tương lai tiền đồ Tổ quốc cả ṇi giống Việt Nam của chúng ta vậy. V́ cớ nên đêm nay mới có cuộc lễ nầy, đặng cầu nguyện Đức Chí Tôn cho được kết liễu mỹ măn và đôi đàng lấy thật tâm ḥa giải, hầu văn hồi trật tự, an ninh cho nước nhà ta.

Kỳ trước, khi Bần Đạo ở Hồng Kông về, Bần Đạo có lên ṭa giảng nầy nói rằng, cái khó là chẳng phải do nơi Pháp nữa, mà lại do Việt Nam ta, bao giờ cũng vậy, nhơn tâm vẫn thế. Trải tám mươi năm lệ thuộc, chúng ta chịu thống khổ tâm hồn đă nhiều rồi, bây giờ chúng ta hẳn đ̣i lại, đ̣i cho kỳ được, và phải được mà thôi, nhứt quyết như vậy. Cả đồng chủng của chúng ta ngày nay tinh thần đă đến bực lăo thành rồi, chẳng c̣n ưng chịu nhục nhă tâm hồn như xưa nữa. Đ̣i, đ̣i đặng dùng ai là người yêu nước, thật tâm ái quốc, không phải nói trong cửa Đạo mà thôi, nói tất cả mỗi cá nhân trong xă hội, nếu ai là người thật tâm ái quốc, muốn lo lắng cho nền vận mạng nước nhà, th́ cần phải suy đi xét lại và nhận định sự tấn thối cho tường, mỗi mỗi việc ǵ cũng phải để trọn tâm nghiên cứu cho thấu lư mới được. Định vận mạng cho một nước không phải là dễ, rất đổi việc làm cá nhân là việc nhỏ mà c̣n phải suy gẫm định tâm rồi mới quyết đoán, để cả tinh thần trí thức đặng giải quyết thay, huống chi cả vận mạng của một ṇi giống th́ cần phải kỹ lưỡng hơn nữa ḱa.

Hại thay! Những kẻ lănh đạo kháng chiến, trong buổi tinh thần của một nước đă chịu tám mươi năm lệ thuộc đang bồng bột, mà những kẻ ấy ơ hờ chẳng để hết tâm hồn nghiên cứu. Bần Đạo nói thiệt, họ không ái quốc chi hết, bất quá là một trường tranh đấu đặng đoạt lợi quyền mà thôi, nếu thật tâm ái quốc th́ họ đă giải quyết xong rồi. Cái quyền sở hữu của ḿnh là thiên hạ thiếu nợ ḿnh, th́ ḿnh đ̣i cần ǵ phải đánh lộn với họ, cứ chiếu giấy tờ ra mà đ̣i, nếu không trả th́ kiện, chớ đánh kẻ thiếu nợ th́ nó nổi khùng đánh lại, nó có chịu thua ḿnh đâu, rồi nó không chịu trả mới làm sao nó? Những kẻ lănh đạo ấy đă vô ư thức chắc hẳn vậy. V́ bởi cớ mà Bần Đạo đến giải quyết vấn đề của ṇi giống chúng ta là duy có lấy cái quyền sở hữu ấy đặng đ̣i mà thôi.

Lập lại một lần nữa, nếu Bần Đạo không bị đồ lưu nơi hải ngoại, th́ không cần phải đánh nhau. Bất chiến tự nhiên thành, nền chơn giáo sẽ đem ṇi giống ra khỏi sự thống khổ như thời dân Juifs, Đức Chí Tôn đă sai Jésus Christ đến giải khổ vậy. Nếu thiên cơ không định dường ấy th́ Đạo không có giá trị ǵ hết. Tại sao? Chí Tôn đă đến cầm tinh thần của ṇi giống Việt Nam 4.000 năm văn hiến, đặng làm khí cụ quyết chiến với tinh thần, coi có giải thoát ṇi giống Việt Nam đặng chăng, coi có thắng được hay không cho toàn con cái của Người ngó thấy.

Không thể dùng ngọn gươm, mũi súng mà quyết đoán thiên hạ đặng. Tài lực, cường liệt của gươm súng không quyết định thắng thiên hạ đặng, quyết hẳn như vậy. Ta nên lấy đó mà làm bài học và cho dân tộc Việt Nam thấy rằng, chúng ta có một mănh lực c̣n mạnh hơn nguyên tử lực nữa ḱa, chẳng lực lượng nào tàn sát cùng động đến được là tinh thần đó vậy. Bần Đạo muốn cho ṇi giống Việt Nam thấy lực lượng tinh thần nhơn nghĩa, đạo đức, đă thâu đoạt thắng lợi một cách vinh diệu. Ta hăy để mắt xem và để cả đầu óc suy nghiệm, coi hành tàng của kẻ vô đạo, con loàn, tôi giặc kia, có thắng được tinh thần của Tổ tiên Việt Nam lưu lại đó hay chăng cho biết.

Ta mở mắt xem bên nào thắng, bên nào bại.


 

31- LỄ TIẾP RƯỚC ÔNG TỔNG TRƯỞNG BỘ PHÁP QUỐC HĂI NGOẠI.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm mồng 9 tháng 5 năm Mậu Tư (dl. 15-06-1948)

 

Ngày hôm nay, Bần Đạo đ́nh sự khảo cứu phong hóa của nhà Nam ta về đạo nhơn luân, đối với đạo nhơn luân của cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, để nói về buổi lễ hồi sáng nay tổ chức với ư nghĩa, chí hướng ǵ?

Vả chăng Ông Chevance Bertin, là đại diện của Tổng Trưởng Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại, lănh mạng lịnh của quan Tổng Trưởng sang Đông Dương đặng quan sát t́nh h́nh liên quan Việt Pháp, tức là t́nh h́nh đương nhiên của nước nhà ta đối với nước Pháp. Ấy là một yếu nhơn có thể làm phát ngôn viên, đặng đem sự thật tŕnh bày cho dân tộc Pháp hiểu biết t́nh trạng hiện tại, nên Bần Đạo đến tại Sài Thành, để có lời ước vọng cùng Ông quan sáu De Latour là muốn gặp Ông Chevance Bertin.

Thời buổi đương nhiên nầy, chúng ta đừng để cho thiên hạ có thể nói rằng, không hiểu tâm lư của ṇi giống Viêt Nam như thế nào, hễ gặp dịp là phô bày, nhứt là chúng ta là người đạo đức, càng cần phải trải sự thật trắng ra trước mắt, cho người ta quyết đoán.

Bần Đạo vừa nói: Ông Chevance Bertin là một yếu nhơn có thể làm phát ngôn viên cho Việt Nam nơi nước Pháp. Ngài là một vị Trung Tướng hồi hưu, nay làm chủ nhiệm tờ báo Climat, là tờ báo được quốc dân Pháp tín nhiệm. Bần Đạo bày cuộc lễ hồi sáng, đặng nhờ toàn con cái của Đức Chí Tôn nhứt tâm, nhứt đức, tỏ rơ thiệt tướng, đạo đức tinh thần của chúng ta ngày nay như thế nào, cho Ngài ngó thấy mà thôi. Bần Đạo dám chắc, không hề nói dối, đó là làm cho tinh thần của Ngài để ư suy nghĩ lắm vậy. Lạ ǵ, thế thường thiên hạ hay nói (lời lặp lại của Đức Chúa Jésus Christ): Mắt với mắt, răng với răng (Oeil pour oeil dent pour dent) kẻ vô nhơn t́nh mà ḿnh lấy tánh cách vô nhơn t́nh ấy đối lại th́ vẫn vô nhơn t́nh măi thôi, không hề khi nào thâu nhơn t́nh đặng, lấy oán hận mà trả lại sự oán hận, th́ nó vẫn c̣n măi măi. Trên mặt thế gian chưa ai biết được quyền năng tinh thần đạo đức, quyền năng ấy vô đối, nếu ta biết nắm lấy nó trong tay, th́ nó là cây gươm, nền Đạo gọi là Huệ kiếm. Đem t́nh cảm đặng cảm giác thiên hạ, tấn tuồng ấy Bần Đạo đương làm đây với một chánh sách, từ khi biết Đạo và ra đảm nhiệm phận sự thiêng liêng của Chí Tôn phú thác. Bần Đạo đă biết rơ sự bí mật của cơ chuyển thế nầy và tánh chất của loài người, thấu đáo tận tường rằng không bao giờ dùng cường lực đặng đè nén, ép buộc tinh thần loài người, đặng đem vào Thánh chất cho được. Muốn chuyển theo chánh sách của Đức Chí Tôn th́ duy có lấy nhơn đức đối với hung bạo, lấy hiền đối với dữ, lấy tâm quảng đại bao la khoan dung tha thứ của Trời Đất đối với tánh đức hẹp ḥi của loài người, lấy tâm bác ái trải ra toàn tâm lư loài người đặng trừ cái tánh gian xảo, hung tàn, quỉ quyệt của họ. Nếu chúng ta đi theo được đúng như vậy, mới có thể xứng đáng là kẻ thay mặt cho Đức Chí Tôn cầm cơ chuyển thế tại thế gian nầy.

Bần Đạo đă làm đặng như vậy, và sẽ c̣n làm nữa. T́nh trạng của chúng ta làm ngày hôm nay để cho thiên hạ thấy tâm đức chơn thật của chúng ta đă trải trước mắt họ, th́ họ cũng phải đối lại với ta chơn thật như vậy.

Coi vậy mà ngoài mặt ta tinh thần đương thanh tịnh sẽ có giờ xao xuyến, chớ thiên lương tâm lư vô đối trong phút giây tỉnh giác và phút giây ấy có thể làm môi giới cho ta tự tỉnh cả kiếp sống của ḿnh.

Ta đă t́m phương tỉnh giác thiên hạ, Phật Thích Ca có nói: "Tự giác nhi giác tha" có giác tha, mới hiểu cuộc lễ ngày hôm nay không phải là bỏ, ngày mệt mỏi hôm nay không phải là một ngày vô ích và sự kết quả tâm t́nh của ta đối với đại diện của nước Pháp đến viếng Ṭa Thánh vị ấy sẽ thấy và hiểu chúng ta, th́ ảnh hưởng đó một ngày sau mà là ngày gần đây thôi, sẽ đem đến cho Quốc dân Việt Nam những thắng lợi bất ngờ.


 

32- V̀ SAO ĐỨC HỘ PHÁP CẦM QUYỀN NHỊ HỮU H̀NH ĐÀI.

 

Tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Mậu Tư (dl. 20-06-1948)

 

Bần Đạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai Đạo đến giờ Bần Đạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được quyền (huyền?)(*1) diệu pháp, điều mà mấy người không thể tưởng tượng được, v́ từ khi mở Đạo mới có lần đầu. Hay là tại chúng ta đồng thinh tụng kinh mà được như vậy chăng? Ấy vậy, từ đây về sau, chúng ta vẫn làm y như kỳ nầy măi măi.

Hôm nay, Bần Đạo xin tạm đ́nh khảo cứu nền phong hóa của Việt Nam đối với dân tộc vạn quốc đặng thuyết một vấn đề trọng yếu từ thử đến giờ chưa ai thố lộ. Ngày hôm kia, Bần Đạo gặp Đức Lư Giáo Tông vấn đáp cùng Ngài về một lư thuyết tối trọng yếu trong nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn. Ấy vậy, xin cả thảy b́nh tâm lắng nghe Bần Đạo minh thuyết và rán nhớ, bởi v́ bài giảng Đạo hôm nay có điều bí ẩn tiên tri, sự tiên tri ấy kết liễu cùng chăng không rơ, nhưng hiện giờ ta có thể đoán xét được.

Đức Lư Giáo Tông có giáng cơ nói, giao quyền Cửu Trùng trong tay Bần Đạo đặng thống nhứt quyền hành Chưởng Quản Nhị Hữu H́nh Đài, ấy là do Ngọc Hư Cung quyết định, tức là Thiên điều quyết định vậy. Điều ấy Bần Đạo lấy làm khó nghĩ, lấy trí mà tưởng tượng. Ngoài ra người nào khác hơn là Bần Đạo th́ không để ư, nhứt là khi chịu nhận đảm nhiệm ấy làm cho tinh thần Bần Đạo kiếm hiểu v́ cớ nào Ngài cho Bần Đạo quyền thống nhứt, mà t́m kiếm không ra.

May thay! Đức Lư Giáo Tông đến, Bần Đạo thú thiệt xin Ngài nói rơ cho biết đôi việc nhỏ đặng chỉnh đốn lại, và xin lỗi đặng vấn nạn Ngài vấn đề ấy. Bần Đạo nói:

"Bạch Ngài, sự bí mật ấy Ngài có thể cho tôi biết đôi chút đặng tôi mới an tâm, an trí được".

Ngài cười nói: "Bần Đạo vẫn biết trước thế nào Hiền Hữu cũng vấn nạn. Nhưng Bần Đạo đă cố tâm để đối đáp lại cùng Hiền Hữu. Trước kia muốn biết sự bí mật ấy, chúng ta nên t́m hiểu Nhị Hữu H́nh Đài là ǵ? Bần Đạo xin giải nghĩa: Cửu Trùng Đài là chơn tướng của Cửu Thiên Khai Hóa tức là cơ hữu vi của Càn Khôn Vơ Trụ, do Cửu Thiên Khai Hóa tạo thành".

Hỏi: Bởi quyền năng nào tạo thành?

Do nơi quyền năng vô đối của Chí Tôn. Pháp là thành tướng ấy là do nơi Pháp từ Thượng cổ đến giờ liên hiệp Vạn Linh và Chí Linh. Bởi vậy ta t́m Đạo là cốt yếu t́m hiểu cái bí pháp ấy như thế nào và có phương thế ǵ làm cho ta đoạt đặng chăng? Ấy vậy, Cửu Trùng Đài là Cửu Thiên Khai Hóa tạo đoan cả Vạn Linh trong Càn Khôn Vơ Trụ. Chúng ta ngước mặt lên trời, mắt ta thấy hằng hà sa số là địa giới, ta gọi là sao, mỗi v́ tinh tú ấy là một quả địa cầu có người ta ở, cho nên Đức Chí Tôn mới nói rằng: Càn Khôn Vơ Trụ nầy chứa đầy Vạn Linh. Nói rơ hơn Cửu Trùng Đài là Đời.

C̣n Hiệp Thiên Đài là Pháp giới tạo ra Vạn Linh, nó là Đạo, rơ rệt như vậy.

Bây giờ Bần Đạo hỏi tại cớ nào Ngài đến đây, cầm quyền trị thế. Ta t́m hiểu cao sâu hơn nữa sự bí mật ấy. Hiện thời chúng ta thấy ǵ? Ta thấy đời đương phấn khởi bồng bột, tự năng, tự tạo, tự đoán, tự chủ, không c̣n đạo đức ǵ hết. Đương nhiên có hai h́nh tướng:

Cộng Sản tinh thần thể chất.

Các Ban máy móc, cách vật, hóa học tức thuộc h́nh tượng thể chất.

Hai h́nh trạng ngày nay đối chọi nhau. Thảng ngày kia nó hiệp đồng lại, th́ thể chất ấy có h́nh lại có hồn phách th́ ta thử tưởng tượng trên mặt địa cầu nầy sẽ thể nào. Thể chất th́ lúc nào cũng xu hướng theo thể tánh duy vật mà thôi. Thảng các Tôn Giáo đương cầm tương lai linh hồn của loài người, trên mặt địa cầu nầy không đủ năng lực th́ cả tài năng thể chất sẽ xô đuổi cả xác thịt lẫn linh hồn của con người đến chỗ tự diệt. Ấy vậy, tinh thần tức là đạo đức, phải như thế nào đặng đối phó cho vừa sức lại thể chất ấy. Đời bây giờ quá tấn triển về h́nh thể, phải có cơ Đạo đủ năng lực tỉnh thức tâm hồn của loài người và giữ ǵn d́u dắt cho mới tồn tại. Mà ta thấy các Tôn giáo hiện hữu tại địa cầu nầy đă mất quyền. Điều đó quyết hẳn vậy! Thiên hạ tinh thần đă loạn mà không ai cầm quyền điều khiển nên tự do sát hại lẫn nhau.

Chí Tôn đến, đến đặng cứu con cái của Người.

Người đă làm thế nào? Chẳng có chi lạ. Người chỉ tăng cường đạo đức làm giềng mối cho tâm lư loài người đặng bảo tồn sanh mạng cho cả nhơn loại với phép duy tâm th́ Đời mới tồn tại.

Ngài luận tới đó, Bần Đạo nói: "Than ôi! Đạo Cao Đài đă hai mươi ba năm mà c̣n lẩn quẩn trong nội địa Việt Nam, có đâu đủ đảm lực ra toàn cầu đặng độ rỗi nhơn sanh, e đặc phận ấy quyết định con đường của Đạo c̣n dài, c̣n sơ cấp tương lai vận mạng loài người đương cấp bách, làm thế nào chuyển thế cho kịp đặng hoàn tất cả đảm nhiệm thiêng liêng của ḿnh".

Ngài trả lời một câu rất hữu duyên, chúng ta không thể tưởng tượng được. Ngài nói rằng: "Cái nhà máy xay, vốn nó không cấy, không gặt mà nó vẫn có gạo cho ra toàn nhơn sanh ăn; Đạo Cao Đài không ra khỏi nước mà có thể làm phận sự trọn vẹn đặng".

Bần Đạo hỏi câu ấy có ư nghĩa thế nào?

Ngài đáp: "Mối chơn truyền của Đức Chí Tôn đem Đạo đến tại thế là mối dây liên lạc tương quan cùng các Tôn giáo trên Thế giới, đương nhiên cầm quyền nhơn loại bởi không có giềng mối kết liên với nhau thành ra chia rẽ, phân biệt trắng đen, hơn thiệt. Trận giặc Tôn giáo trên địa cầu hiện giờ ta thấy tại Ấn Độ và Palestine có thể nào làm cho các Tôn giáo hiệp đồng tâm đức đặng chăng. Duy có năng lực của Chí Tôn tạo thành mối dây liên hệ các Tôn giáo cùng nhau đó thôi".

Bần Đạo vấn nữa: "Thảng các Tôn Giáo ấy Chí Tôn đem dung ḥa đặng họ tương hội cùng nhau, mà họ không nghe, th́ ta mới làm sao?"

Ngài nói: "Dầu đương nhiên họ không nghe, nhơn sanh sẽ biết điều trọng yếu ấy mà đ̣i hỏi th́ họ phải chịu, chừng ấy nhơn sanh buộc hiệp, phải hiệp, bằng chẳng vậy họ sẽ tự diệt lấy họ".

Ấy vậy, Đức Chí Tôn định cho Hộ Pháp cầm quyền hai Đài, tức Thiên điều quyết định Đạo phải làm chủ của Đời, oai quyền ấy sẽ cứu Đời khỏi tận diệt.

V́ cớ Ngài nói Thiên điều trong tay Bần Đạo là vậy đó.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
Ngày âl. 14-05-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 20-06-1948) nguyên bản chánh in là: 14-05-Mậu Tư (dl. 21-06-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 1: Bần Đạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai Đạo đến giờ Bần Đạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được quyền (huyền?) diệu pháp,...
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Bần Đạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai Đạo đến giờ Bần Đạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được huyền diệu pháp,...


 

33- QUẢ KIẾP CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.

 

Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ ngày rằm tháng 3 năm Mậu Tư (dl. 23-04-1948)

 

Cùng mấy chị mấy em, từ thử tới giờ chúng ta vẫn sống với đời, chúng ta thường thấy điều ǵ trái với nguyên do, tức nhiên phải t́m cho thấu đáo hoặc đoán cho được. Tỉ như đường may mà mũi kim không ăn vải, máy sẽ ắt có sứt mẻ chi đó, c̣n như xay bột thấy nghẹn không xuống th́ biết thiếu nước. Cái ǵ cũng có nguyên do của nó, phải t́m cho biết hoặc đoán cho ra lẽ.

Hiện giờ có một việc dị hợm là nước Pháp chịu trả tự do độc lập thống nhứt, trả trọn vẹn mà từ thử đến giờ Pháp đă nói nếu chúng ta tự trị được, tự bảo vệ được, nên biết chúng ta có thể đem hạnh phúc lại cho ṇi giống được th́ người ta sẵn ḷng hứa trả, sợ e cho ḿnh không hưởng được hạnh phúc mà c̣n nguy khổ nữa, nên buộc người ta phải gánh cả trách nhiệm đă tám chục năm qua c̣n lưu lại mối thâm t́nh của hai ṇi giống. Hai nữa là quyền lợi đă tự tạo trên tám chục năm c̣n lưu lại để mưu cầu sự sống chung với nhau cùng tạo hạnh phúc chung cho hai dân tộc. Nếu người ta sẵn ḷng trả cho ḿnh vi chủ lấy th́ có nhiều người lấy làm lạ, nhứt là hạng thượng lưu trí thức của Pháp, họ rất ngạc nhiên rằng nước Pháp không hề cản đảng, không hề từ chối cho dân tộc Việt Nam thống nhứt và độc lập mà tại sao dân Việt Nam lại c̣n đánh Pháp, họ hỏi như vậy đó? Hồi nước Pháp muốn trả những điều đó cho tay khác, nghĩa là muốn đưa bướng cho rồi, nhưng sực nhớ lại là không phải chủ nên đ̣i, mà đ̣i măi không lấy lại được, rồi v́ sự lỗi lầm đó sanh rối lạ thường lắm vậy! Bởi cái rối đó mà tôi bắt tội họ, họ không thể chối được. Họ lại nói thảng như lời của Pháp không cho ḿnh thống nhứt, không chịu trả nước cho ḿnh th́ ḿnh phải giết họ chớ, bởi họ là kẻ thù. Tại sao trở lại giết ṇi giống của ḿnh, gây nạn tương tàn tương sát lẫn nhau? Nên họ cho đó là đảng cướp, đảng cướp ấy lợi dụng danh từ ái quốc để giết người lấy của mà thôi.

Lạ lùng thay! Đêm hồi hôm tôi thuyết rơ tại quả kiếp của ṇi giống mà chúng ta ngày nay phải chịu h́nh khổ. Đời trước vay, đời sau phải trả, tấn tuồng đau thảm cốt nhục tương tàn nầy c̣n nhiều nữa, v́ buổi trước đă tạo nên nay lưu lại măi thôi, làm sao đoạn được, có phương ǵ đoạn được chăng? Có chứ.

Điều chướng ngại hiện giờ là tôi tưởng phải khó khăn về phái người Pháp, trái lại Đức Bảo Đại làm khó người ta, làm cho đ́nh đăi cuộc thương thuyết, mà một ngày chưa thương thuyết, là một ngày nhơn sanh chết chẳng biết bao nhiêu. Tại sao vậy? Tại quả kiếp chưa thường đủ, nhơn sanh phải chết phải trả món nợ c̣n đang đ̣i, trả bằng máu, bằng con số sanh mạng. V́ cớ mới có sự chướng ngại lạ lùng vừa nói. Mà nợ ấy đ̣i bằng sanh mạng, bằng máu tức là đ̣i cốt nhục của mấy bà đó chớ, không con cũng cháu hoặc bà con thân quyến. Đâu xúm lại cầu nguyện Đức Phật Mẫu can thiệp giùm cho, sau thờ ơ quá vậy! C̣n bên phái nam cũng vậy, không biết chừng, giọt máu chưa trả nợ đó c̣n ở trong mấy người, phải xúm nhau cầu nguyện.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 15-03-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 23-04-1948).


 

34- ĐỨC CHÍ TÔN HÀNH PHÁP TẠI KIÊM BIÊN.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm 24 tháng 5 năm Mậu Tư (dl. 30-06-1948)

 

Bần Đạo nhớ khi lên mở Hội Thánh Ngoại Giáo trên Kiêm Biên năm 1927, đặng truyền giáo, Đức Chí Tôn cho vị Phối Sư Hương Lự của chúng ta đây được thông công cùng Ngài, nhờ nghe, nhờ thấy, truyền pháp cho Bần Đạo.

Khi nọ, Chí Tôn biểu Bần Đạo lại kệ "bàn viết" có sắp một dăy nhựt tŕnh đặng rút ra hai tờ. Ngài lại dạy chị chúng ta là bà Phối Sư Bảy đứng bắt ấn, kế Bần Đạo trải hai tờ nhựt tŕnh sau lưng mà bà chị vẫn không biết. Tới lúc bắt ấn rồi, Bần Đạo thưa: "Đă trải rồi". Tức th́ bà chị nhảy ngược lại, đạp hai tờ nhựt tŕnh. Bần Đạo không hiểu nghĩa ǵ. Đức Chí Tôn biểu coi hai chơn có đạp cái ǵ. Bần Đạo coi chơn trước giở lên là h́nh Tưởng Giới Thạch, đạp ngay trên đầu, c̣n chơn sau Bần Đạo biểu giở nhón lên, coi thấy h́nh Roosevelt, quan Tổng Thống của nước Mỹ đạp ngay ngực và miệng. Đức Chí Tôn nói với Bần Đạo rằng: "Một ngày kia Trung Hoa sẽ thờ phụng Đạo đáo để, c̣n nước Mỹ sẽ lănh trách nhậm đi truyền giáo toàn cầu". Ngày nay, chúng ta đă thấy tưởng chừng như Chí Tôn đă khiến mấy vị phóng viên bên Mỹ đến lấy h́nh trọn vẹn của Đạo, đủ cả chi tiết, kinh luật đem về xứ để truyền bá, th́ mấy vị nầy chẳng khác như Đức Tam Tạng ngày xưa đến Ấn Độ thỉnh kinh. Bần Đạo dám chắc sự bí mật mà Bần Đạo thấy Chí Tôn hành pháp buổi nọ, đă kết liễu ngày hôm nay.

Ấy vậy, chúng ta phải chịu nhọc một chút đặng nghinh tiếp họ, trong buổi lễ nầy.

(A) Bần Đạo tưởng khi những người có mặt ngồi tại đây hầu lễ nầy, biết chừng đâu, cũng sẽ được hạnh phúc như đi truyền giáo bên Mỹ sau này mà chớ.

Bần Đạo để lời cám ơn toàn cả nam nữ và các bí pháp ấy chúng ta sẽ thấy Chí Tôn làm thành tướng trong thời gian ngắn ngủi sau đây.


 

35- CỦA CẢI SỐ 1 CỦA CHÚNG TA TẠI THẾ NẦY.

 

Tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 6 năm Mậu Tư (1948)

 

Đêm nay, Bần Đạo giảng tiếp của cải số 1 của chúng ta ở tại thế nầy, hôm nọ Bần Đạo đă tả ba h́nh trạng của cải của chúng ta thế nào rồi.

Đức Chí Tôn Ngài d́u đường cho cả con cái của Ngài để đoạt đặng của cải ấy, và chúng ta đi từ từ mà đến con đường đoạt cho đặng 3 thứ của. Chúng ta có thể làm đại nghiệp cho chúng ta về hữu h́nh và về Thiêng Liêng.

Bây giờ Bần Đạo chỉ nói về của cải số 1, tức nhiên là của cải hữu vi của chúng ta, hôm nay Bần Đạo đă tả cái sở dụng của cải hữu vi của chúng ta. Số người nào biết t́m vạch gia nghiệp ruộng đất cho họ, có các vật chi đă hưởng được, đặng giúp ta sống về phần xác thịt, th́ trước khi chúng ta phải hiểu cái căn nguyên của nó trước đă, nó đă giúp cho ta những ǵ? Nó giúp cho ăn mặc, nó giúp cho ta tất cả phương pháp sống về xác thịt chúng ta, chỉ có bao nhiêu làm căn bản. Nếu nói lư luận theo căn bản th́ chúng ta là con vật mà thôi. H́nh thể của chúng ta có ngũ tạng lục phủ để sống, một con vật nó cũng có ngũ tạng lục phủ nữa, như ḿnh, đây th́ con vật ăn cái ǵ th́ ḿnh ăn cái nấy, nó có hai thứ tiếp dưỡng, 1 là cái ăn gián tiếp, 2 là cái ăn trực tiếp, cái ăn gián tiếp, là thứ như con trùn nó ăn đất mà sống, mà hại thay cái tiếp dưỡng trực tiếp th́ mạng sanh con người không được bền bỉ vĩnh viễn, c̣n cái ăn tiếp dưỡng gián tiếp là chúng ta ăn cỏ, cây, trái mà để dưỡng xác ta, nó đem lại cho ta cái tinh ba dưỡng khí vô cùng, c̣n cái tiếp dưỡng trực tiếp là sát sanh mạng của vật loại để thực nhục th́ cái mạng sanh của con người có định giới hạn tu khó mà trường cửu được.

Như thảo mộc phải thí thân đặng nuôi dưỡng cho các loài vật mà thôi, th́ ta phải ăn thảo mộc mà chớ, c̣n một điều cao hơn nữa, nếu là thú vật thí thân để nuôi người th́ phải thí thân đền trả cho Đấng Tạo Đoan thử hỏi Đấng ấy có phải bắt chúng ta thí thân đền trả không? Chắc chắn không. Th́ loài vật thí thân để nuôi cái mạng sanh con người không có căn lư nào hết.

Con vật nó có hưởng được cái đặc ân thảo mộc để tiếp dưỡng đủ nuôi sanh mạng của nó th́ ḿnh đâu có quyền đoạt mạng sống của loài vật mà để nuôi mạng sanh của ḿnh.

Chúng ta đă ngó thấy hiển nhiên thời đại nầy họ chỉ sống cái phương sống của người mà họ sát hại sanh vật, làm phương sống của người, th́ biểu sao hằng ngày không có cảnh tương tàn tương sát với nhau. Cũng v́ cái sống bạo ngược mà chúng ta thâu đoạt của cải đặng để vào cái thân danh của chúng ta, có đất mà không biết trồng tỉa thảo mộc để nuôi mạng sống của loài người, nên Đức Chí Tôn đă sắp sẵn nơi mặt địa cầu nầy, những căn bản do nơi đất mà ra, để cho loài người nhờ đất mà sống. Cái lư thuyết nầy chúng ta đă thấy hiển nhiên trước mắt, không có một mảy may ǵ mà lại chúng ta không sống nơi đất, Đức Chí Tôn đă tạo cho chúng ta sống mà lại ban cho chúng ta có một quyền năng để đổi cái sống của chúng ta nơi mặt đất nầy. Hại thay! Chúng ta đổi đất có thể nuôi thiên hạ được, cái của cải nơi mặt đất nầy có thể nuôi thiên hạ đặng, không tranh giành với nhau mà sống, cái sống của chúng ta rất dễ dàng, mà tại sao chúng ta tạo cái sống khó khăn khổ năo mà thôi. Đức Chí Tôn đă để bài học cho chúng ta thấy là Ngài không cho chúng ta cực nhọc. Ngài biểu chúng ta trai giới là cốt yếu Ngài biểu chúng ta đổi đất mà sống, hễ đào đất mà sống th́ sống một cách đơn sơ lắm. Đào đất để sống, xin ai th́ khó mà xin đất vẫn dễ mà!... Nếu chúng ta hiểu biết v́ đất mà sống th́ loài người vẫn nh́n nhau mà lo sống với nhau một cách ḥa giải vậy.

Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, th́ chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng th́ không bao giờ đói, cái đó (đói?)(*1) là do nơi làm biếng mà thôi. Trái lại họ không đào đất để mà sống, họ chỉ âm mưu sang đoạt của người, hễ thấy người ta có cái ǵ th́ muốn lấy, muốn giựt của người, nên nay mới có những sự tranh đua như thế.

Cái sống hữu h́nh, Bần Đạo để cho thấy đó mà kiếm sống. C̣n cái của cải thiêng liêng ấy tức nhiên là thân tộc của chúng ta. Ngài đă ban cho cha mẹ, vợ, con, anh, em chúng ta cái của cải ấy mà chúng ta không thể nào kiếm đặng. Tấn tuồng đói khổ là tại chúng ta không biết t́m đất mà sống, lại giết hại sanh mạng con vật mà sống, rồi tranh danh đoạt lợi mà giết hại lẫn nhau cái sự khổ năo đó nó đă lan tràn trong xă hội, những kẻ có cái bản năng tranh giành xô xát với nhơn loại th́ nó sống một cách cô độc khổ năo lắm, té bên mặt không ai đở, ngă bên trái không ai nâng. Đức Chí Tôn đă sắp đặt cho loài người để sống mà không biết nương dựa theo đó để sống, lại t́m phương thế khác để sống cho đủ đầy vật chất, nên nay mới có thời kỳ loạn lạc nầy mà tại chúng ta không biết t́m định cái nguồn cội mà Đức Chí Tôn đă dành sẵn cho loài người nơi mặt thế gian nầy.

Hiện giờ cái h́nh trạng căn bản thiêng liêng ấy mà chúng ta có thể nào đoạt đặng chăng? Đức Chí Tôn Ngài nói được lắm chớ, các người muốn đoạt được th́ phải hợp thành một gia tộc th́ mới đoạt đặng của cải quí báu thiêng liêng ấy, cái của cải thiêng liêng nó đă dành sẵn trong tay mọi người, mà ít có ai để ư đến, chúng ta chịu nghèo là do nơi mù quáng không ngó thấy mà thôi. Ấy là cái khổ tâm của bạn hữu h́nh. Nếu cái khổ của bạn hữu h́nh chúng ta được chấm dứt th́ chúng ta đă đoạt được tại mặt thế nầy đó vậy.

C̣n cái điều thứ ba khi hôm Bần Đạo đă tả h́nh trạng của cải mà từ trước Tiên Nho để lại câu:

- Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ,
- Tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc,
- Bất như tích âm đức ư minh minh chi trung dĩ trường cửu chi kế.

Nghĩa là: Chứa vàng để lại cho con, biết con có bảo thủ được không? C̣n chứa sách để lại cho con, biết con có học hay không? Chỉ chứa đức là con nó hưởng được mà thôi. Nếu không ở vào cửa Đạo th́ không bao giờ tạo đức được, nên ngày nay Đức Chí Tôn đến lập Đạo để cho các người lập đức nơi cửa Đạo Cao Đài nầy đó vậy.

Chỉ có Đạo Cao Đài để tạo đức cho các triệu người đặng hưởng, mà đức ấy của Đạo Cao Đài làm th́ không bao giờ mất. Tôi xin bảo đảm không bao giờ mất.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 14-06-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 20-07-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, th́ chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng th́ không bao giờ đói, cái đó (đói?) là do nơi làm biếng mà thôi....
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, th́ chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng th́ không bao giờ đói, cái đó đói là do nơi làm biếng mà thôi....


 

36- LUẬT PHÁP VÀ QUYỀN ĐIỀU KHIỂN CÀN KHÔN VŨ TRỤ.

 

Tại Đền Thánh, đêm 23 tháng 6 năm Mậu Tư (dl. 29-07-1948)

 

Hôm nay Bần Đạo giảng về "Luật pháp và quyền hành điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ".

Bài giảng hôm nay cốt nhứt là để cho cả thảy Thánh Thể Đức Chí Tôn được thấu hiểu pháp luật và quyền hành điều khiển nơi cơi Thiêng Liêng, vậy cả Chức Sắc Thiên Phong Nam và Nữ, nên để ư cho lắm, phải để ư suy đoán cho nhiều rồi mới nhận thấy thật là ngộ nghĩnh. Chúng ta thấy luật pháp và quyền hành trị Càn Khôn Vũ Trụ đơn sơ làm sao đâu. Cả tấn tuồng đời chúng ta ngó thấy họ tạo luật pháp và quyền hành đặng trị xă hội, thật ra rối rắm quá chừng, quá đổi, mà vẫn không thế ǵ trị an đặng, lại càng làm cho tinh thần thiên hạ thêm khó khăn khổ năo mà thôi. C̣n luật pháp quyền hành điều khiển Càn Khôn Vơ Trụ tức là Đạo, nên các nền Tôn Giáo nào không tùng theo luật pháp và quyền hành ấy đặng trị tâm thiên hạ, th́ đó là Tà giáo, là Tả Đạo, là Bàn Môn, chớ không phải là Chánh giáo. Chúng ta phải quan sát những điều ấy trong thuyết giáo của Bần Đạo hôm nay, và Bần Đạo sẽ nói rơ, vả chăng ta sống đây ta cũng nên cho biết quyền hành và luật pháp đă trị an Càn Khôn Vơ Trụ như thế nào, rồi ta mới hiểu rằng: Cả luật pháp và quyền hành Đạo giáo cũng đều ở trong khuôn khổ ấy mà ra, không có ngoài nữa đặng. Mà muốn t́m hiểu luật pháp ấy phải t́m đâu mà thấy và biết đặng? Phải nơi chủ quyền của cơ thể tạo đoan Càn Khôn Vơ Trụ, tức là phải t́m ông chủ quyền Càn Khôn Vơ Trụ ấy, biết đặng ổng, biết năng lực, tánh chất của ổng, mới hiểu luật pháp và quyền hành của ổng. Đấng ấy là ai? Là Đại Từ Phụ chúng ta đây vậy.

Buổi nọ, Bần Đạo vấn nạn Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Bần Đạo hỏi: "Quyền năng và tâm đức của Đức Chí Tôn như thế nào?" Ngài trả lời trong một câu Pháp văn, Bần Đạo dịch như thế nầy: "Luật thương yêu, quyền là ngay chánh. Gần thiện lương, xa lánh phàm tâm".

Hai câu thi có đủ cả ư nghĩa rằng: Chúng ta nên suy đoán coi nguyên căn của nó là ǵ mà có năng lực dữ tợn, mạnh mẽ như thế? Quyền lực ấy chúng ta không t́m đâu xa, t́m nội trong châu thân chúng ta th́ đủ thấy. Hỏi mảnh thân nầy, xác thịt sanh ra trong kiếp sống cả cơ quan bí mật đào tạo h́nh thể của chúng ta do bởi đâu mà có? Có phải do nơi t́nh ái của đôi đàng phụ mẫu chúng ta mà sản xuất chăng? Nếu c̣n nghi ngờ nữa th́ ta cứ ngó vạn vật tức vạn linh kia, coi h́nh trạng nó là thế nào?

Chim kết cánh, cây liền cành; rất đổi là con vật mà cũng có t́nh ái thay, nên luật thiên nhiên lấy t́nh ái làm căn bản hóa sanh cả vạn loại. Đức Chí Tôn cũng sản xuất trong t́nh ái mà ra, đi từ t́nh ái hèn hạ dĩ chí tối cao thượng, luật ấy duy có một mà thôi. Mặt luật chúng ta thấy khuôn khổ là vậy, mà quyền năng chúng ta ngó trở lộn lại trong gia đ́nh, coi cha mẹ chúng ta trị gia đ́nh với quyền năng nào, h́nh luật nào? Cha mẹ chúng ta chỉ trị chúng ta với một luật thương yêu, c̣n nếu đủ quyền hơn nữa cho chúng ta cúi đầu vâng chịu phụ mạng, mẫu mạng, th́ thêm công chánh, chúng ta mới cúi đầu vâng chịu. Nên h́nh ảnh mặt luật thiên nhiên tạo đoan đă có sẵn trong gia đ́nh từ trước chúng ta không cần t́m kiếm đâu cho xa chỉ coi trong vạn vật như loài thú, như đối với bầy gà mẹ và con coi gà trống thương yêu con như thế nào th́ đủ hiểu dễ đoán xét lắm.

Bây giờ hỏi: Trong Càn Khôn Vơ Trụ nầy, nếu nói vạn linh không hữu t́nh th́ là dối vậy. Chúng ta sanh ở giữa vạn vật ấy, nếu chúng ta công chánh th́ thấy quả quyết rằng: Cả vạn vật đều hữu t́nh đối với chúng ta tất cả. Tới sắt đá cỏ cây cũng thế. Cả thảy đều có t́nh, với chúng ta hết, nếu nó không có t́nh với chúng ta th́ chúng ta không thế sống hạnh phúc đặng. Chúng ta không thể chối căi điều ấy. Cái t́nh nó đối với chúng ta chẳng phải là t́nh ái, mà là t́nh liên quan Càn Khôn Vơ Trụ đè nén nó xuống, buộc phải tuân mạng lệnh, nên không phải là t́nh ái đặc sắc mà là t́nh ái của Càn Khôn Vơ Trụ buộc nó phải tùng. Chúng ta đă ngó thấy như mặt trời cho chúng ta ánh sáng ban ngày, mặt trăng cho chúng ta ánh sáng ban đêm, cả vạn tượng tinh tú chớp nhoáng trên đầu ta, cả Càn Khôn Vơ Trụ ấy đối với con người có cái tinh thần vững chắc. Nếu ngó lên mà không đủ học thức để thấu đáo cả vạn tướng kia, cũng vẫn thấy nó đối lại với ta mật thiết hữu t́nh. Mà ít nữa ta phải biết cái t́nh của nó đối với chúng ta mới thấu đáo được. Bây giờ hỏi luật t́nh ái Đức Chí Tôn để trong ḷng mỗi kẻ hữu sanh tại thế này, chúng ta không thế chối có phải con người mà đă có t́nh ái, th́ lẽ cố nhiên con vật nó cũng có t́nh ái như con người, nếu không có t́nh ái th́ không có sản sanh nối truyền tông tổ ṇi giống đặng; ấy đó là luật. Không ai mà đúng ngày giờ thời buổi của lẽ thiên nhiên th́ tự buộc phải tuân theo mặt luật t́nh ái ấy. Bần Đạo không cần tả, nó cường liệt phi thường làm sao đâu, chúng ta để mắt thấy một cặp uyên ương kia tự tử thà chết v́ t́nh, chớ không chịu chia ĺa yêu ái. Hỏi khuôn luật nào mà biểu nó làm như thế vậy? Ấy là khuôn luật t́nh ái. Bần Đạo lập lại một lần nữa, nếu không phải khuôn luật t́nh ái vi chủ th́ vạn vật trên mặt địa cầu nầy không c̣n hữu hiệu. Mặt địa cầu nầy thế nào th́ cả Càn Khôn Vơ Trụ cũng thế ấy, vạn vật trên địa cầu nầy thế nào th́ vạn vật trên các v́ tinh đẩu khác cũng thế ấy. Ấy là luật thương yêu.

Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công chánh. Cơ thể tạo đoan chẳng ǵ (v́?)(*1) một ai, chẳng quên ai, chẳng giận ai, chẳng dọa ai, không thù tạc ai, không bỏ rơi ai. Đă sanh vạn vật th́ vốn đồng sanh với chúng ta, chúng ta ngó thấy một kẻ ăn mày kia đui mù, thiên hạ không ai ngó tới, đi xin ăn, ai thấy nghèo nàn đói khổ không chê bỏ, khi rẻ, gớm ghiếc, nhưng c̣n con chó của người theo dắt đường lại vui vẻ trung tín, biết thương thật t́nh với người đó là bởi tại sao? Bởi luật Công Chánh Thiêng Liêng nó buộc đừng phụ răy mà là thương yêu. Duy có loài người, nếu chúng ta xét tới cái tâm công chánh của loài người, th́ chúng ta nên để một dấu hỏi: Quá khôn ngoan, càng linh tâm th́ lại càng nghi hoặc, mất cả tính đức bổn thiện sơ sanh chăng!

Chúng ta ngó thấy cả vạn vật nó không cho người nầy nhiều, cho người kia ít, nó nằm trên mặt đất sẵn sàng do nơi chúng ta biết trọng nó hay không biết trọng nó; do ḿnh lấy sự thương yêu của ḿnh làm căn bản mà dùng nó th́ nó chỉ là một vật của ḿnh dùng đó thôi. Một bầy thú kia dầu dữ thế nào: Như cọp, beo, gấu, sư tử, mà chúng ta có thể nuôi đặng nó, th́ Bần Đạo quả quyết rằng bất quá nó cũng như một con chó giữ nhà vậy thôi. Trong Càn Khôn Vơ Trụ nầy, nếu không có mực thước công chánh thiêng liêng th́ sự sống của con người cũng như con vật, sẽ tranh sống tranh ăn mà phá hoại, th́ mặt địa cầu nầy không khi nào c̣n tồn tại đặng, nếu Càn Khôn Vơ Trụ không công chánh mực thước, địa cầu nào cũng muốn sống cho sáng suốt tự do chạy t́m ánh sáng, th́ địa cầu nầy sẽ đụng với địa cầu kia, mặt trăng, mặt trời không c̣n thể chất. Càn Khôn Vơ Trụ và quyền công chánh đă định vậy, nếu biết tùng theo luật ấy (là?)(*2) trường tồn, trái nghịch là tiêu diệt. Quan sát luật pháp ấy, quyền hành ấy, chúng ta nh́n quả thiệt Đấng Tạo Đoan là chủ quyền đó vậy. Ngộ nghĩnh thay! Đấng Tạo Đoan Càn Khôn Vơ Trụ, với luật pháp ấy, khuôn khổ ấy, ngày nay lại đến tạo Đạo cho chúng ta. Vậy Ngài lấy khuôn khổ nào mà tạo luật pháp, và quyền hành, Ngài để trong Thánh Thể của Ngài, h́nh luật nào, phương pháp nào đặng trị Đạo? Tuy vậy, có Pháp ChánhTân Luật, cốt để b́nh tâm thiên hạ đặng để gỡ tội cho kẻ có tội lỗi, phàm mà không có biết thú tội trước mặt người và trước phép Thiêng Liêng. Định luật pháp ấy cũng tỷ như sợi dây thiết tỏa liệng xuống âm quang cho kẻ tội nhơn nắm nó mà phăng về Thiêng Liêng cựu cảnh; chớ chưa phải là chơn luật và chơn pháp.

Nếu nói từ nay Đức Chí Tôn đến tạo dựng Thánh Thể của Ngài th́ thật sự là Pháp Chánh, nhưng chỉ có tạo Thánh Thể của Ngài ở dưới thế nầy mà thôi, chớ quyền công chánh của Ngài là đă đào tạo Thánh Thể thiêng liêng của Ngài, c̣n về mặt luật là do Hội Thánh lập thành chớ không phải Ngài định luật.

Ấy vậy, nếu chúng ta nói Tân Luật là phàm, th́ quả thật nó là phàm, c̣n Thiên Luật của Chí Tôn là thương yêu mới là Thánh mà thôi. Hỏi vậy, chớ Bần Đạo nói đây có quá lời chăng? Bần Đạo xin đem bằng cớ ra liền.

Từ ngày mở Đạo đến nay đă 23 năm, h́nh trạng của Đạo lấy phương ǵ tạo nền Chánh trị của nó. Quyền lực của Đời thường nương súng đồng, gươm máy, khám tù mà đạt thành, c̣n Đạo làm thế nào cho có quyền mà lập nền Chánh trị Đạo? Nói hẳn rằng, nếu không phải luật thương yêu lập quyền cho Bần Đạo ngày nay, Bần Đạo ắt không c̣n đứng trên ṭa giảng nầy mà giảng Đạo. Nếu không có quyền công chánh, Đạo Cao Đài đă bị tiêu diệt không sống tới ngày hôm nay đâu, bằng cớ hiển nhiên là đó vậy.

Toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn nếu biết, th́ nên nắm quyền luật thiên nhiên ấy, ngày giờ nào thiên hạ được yêu thương nhau nồng nàn, th́ giờ ấy quyền Đạo sẽ là quyền tối thượng nơi mặt thế đó.

 

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công chánh. Cơ thể tạo đoan chẳng ǵ (v́?) một ai, chẳng quên ai, chẳng giận ai, chẳng dọa ai, không thù tạc ai, không bỏ rơi ai....
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công chánh. Cơ thể tạo đoan chẳng một ai, chẳng quên ai, chẳng giận ai, chẳng dọa ai, không thù tạc ai, không bỏ rơi ai....
(*2) Nơi đoạn thứ 8: Chúng ta ngó thấy cả vạn vật nó không cho người nầy nhiều, cho người kia ít, ... ... .... Càn Khôn Vơ Trụ và quyền công chánh đă định vậy, nếu biết tùng theo luật ấy (là?) trường tồn, trái nghịch là tiêu diệt....
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Chúng ta ngó thấy cả vạn vật nó không cho người nầy nhiều, cho người kia ít, ... ... .... Càn Khôn Vơ Trụ và quyền công chánh đă định vậy, nếu biết tùng theo luật ấytrường tồn, trái nghịch là tiêu diệt....


 

37- LỊCH SỬ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm 24 tháng 6 năm Mậu Tư (dl. 30-07-1948)

 

Hôm nay là ngày vía Đức Cái Thiên Cổ Phật Quan Thánh Đế Quân tức Hớn Thọ Đ́nh Hầu Quan Vân Trường nhà Hớn đời Tam Quốc.

Một vị Hiển Thánh đời Hớn, thời Tam Quốc, ngày nay đạt phẩm vị đến Tam Trấn Oai Nghiêm trong nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn, sự vinh hiển cao trọng đó ta thấy giá trị vô đối. Với một Đấng Thiêng Liêng mà lập được vị ḿnh một cách oai quyền vinh hiển ta thường thấy rất ít, thảng có chăng trong nước Việt Nam ta Ngài Trần Hưng Đạo gọi có thể đương đầu với Ngài được mảy may chút ít mà thôi, chớ phần đông từ thử đến giờ kể cả các nước Á Đông nầy hiếm có. Vậy, ta nên khảo cứu coi Ngài làm thế nào để đạt được Thiên vị vinh diệu đặc biệt dường ấy.

Hớn Thọ Đ́nh Hầu Quan Vân Trường buổi nọ là một vị tướng của Thục tức của Lưu Bị. Ta thấy đại nghĩa của Ngài trung can nghĩa khí của Ngài nhứt là về bằng hữu chi giao, t́nh nghĩa đối với bạn hữu của Ngài, dám chắc dầu chúng ta dân tộc Việt Nam hằng chịu ảnh hưởng văn hóa của Nho Tông, chưa có được người nào đă giống như Ngài vậy. Tâm trung nghĩa chẳng v́ sang mà theo Tào, chỉ chuộng Hớn; nghĩa chẳng v́ bạn buổi khổ năo truân chuyên mà phụ răy t́nh nhau; trung và nghĩa ấy hi hữu. Nói đến chí khí của Ngài, Bần Đạo tưởng luận không hết: Ngài bất sát hạ mă chi nhơn. Truyện sách lưu lại rằng Ngài suưt bị Hạ Hầu Đôn giết v́ nó biết cái sở yếu của Ngài mà lợi dụng, nếu không Trương Liêu đến cứu. Mỗi phen Ngài trở cây Yểm Nguyệt Thanh Long Đao định vớt nhà nớ, th́ nhà nớ nhảy xuống ngựa, chí khí đó thế gian hi hữu. Hỏi Ngài lập chí với bộ sách Xuân Thu mà thôi. Người sau có tặng cho Ngài đôi liễn: "Chí tại Xuân Thu, công tại Hớn; Trung đồng nhựt nguyệt nghĩa đồng thiên". Trọn đời Ngài không lúc nào rời bộ sách ấy, lúc nào cũng đọc lấy tinh thần của sách suy luận làm tinh thần của ḿnh.

Kể từ Đào Viên kết t́nh bằng hữu cùng nhau, từ thuở bần hàn cho đến khi vinh huê phú quư sang trọng Ngài vẫn một mực không hề thay đổi tâm đức bao giờ. Tinh thần của người ấy là tinh thần đứng riêng biệt một ḿnh một cảnh giới mà thôi. Thế gian khó t́m thấy một kiểu vở thứ hai nữa đặng. Tinh thần của Ngài có oai quyền đặc sắc, ta thử t́m coi Ngài làm sao mà đặng như vậy?(*)

Nguơn linh của Ngài là Xích Long Tinh. Buổi nọ dân Bắc Hớn phạm Thiên điều bị Ngọc Hư Cung phạt hạn không cho mưa, đặng cho dân ấy phải đói. Dân làng biết mà cầu nguyện nơi Ngài cứu nạn. Ngài cũng thừa biết dân ấy bị Thiên điều hành pháp, nhưng v́ ḷng ái tuất thương sanh không nỡ để dân chết đói, nên Ngài làm mưa. Ngọc Hư Cung bắt tội sai Ngũ Lôi tru diệt. Ngài chạy trốn vào một cái chùa, nhờ ông thầy chùa lấy chuông úp lại. Vị Đạo Nhơn có căn dặn Bổn Đạo trong chùa đừng ai dở chuông cho đến ngày nào Ngài hết hạn. Chư Đạo trong chùa tọc mạch dở ra xem coi vật ǵ, thành thử Ngài phải chịu đầu kiếp, kiếp ấy là Hạng Vơ.(*)

Hạng Vơ th́ ai cũng biết. Nếu ta quan sát trong "Trọng Tương vấn Hớn" th́ rơ tiền căn Hạng Vơ, hậu kiếp Quan Công. Bởi Hớn Bái Công khi lập quốc rồi nghe lời Lă Hậu diệt công thần giết Hàn Tín. Án ấy nằm dưới Phong Đô mấy đời mà không ai xử đặng. Buổi ấy có thầy Trọng Tương là học tṛ khó nhà nghèo nhưng rất hiếu hạnh. Cha chết Trọng Tương cất nhà mồ thờ cha mà ở. Thường hay buồn than thân trách phận biết ḿnh hữu tài vô mạng nên viết một bài thi có ư than rằng: "Thiên địa hữu tư, thần minh bất công" dụng ư trách điểm cái án nhà Hớn mà dưới Phong Đô xử chưa có nổi. V́ vậy nên mắc tội phạm thượng, bị bắt hồn dẫn đến Phong Đô, đem cho Thập Điện Diêm Quân vấn tội. Trọng Tương b́nh tỉnh trả lời rằng: "Nếu cho tôi ngồi làm Thập Điện Diêm Vương tôi xử án ấy cho mà coi". Thập Điện Diêm Vương bằng ḷng. Ngài xử: "Tiền căn báo hậu kiếp, như Bành Việt cho đầu kiếp làm Lưu Bị, Anh Bố làm Ngô Tôn Quyền, Hàn Tín làm Tào Tháo, Hạng Sư làm Nhan Lương, Hạng Bá làm Văn Xủ, Hạng Vơ làm Quan Công".(*)

Ta thấy hồi sáu tướng của Hạng Vơ đem ḷng phản bội, đầu nhà Hớn rượt Hạng Vơ đến bến Ô Giang phải cắt đầu, trao cho Đ́nh Trưởng, chú là Hạng Bá trở lại phản cháu đă đầu lụy Hớn Bái Công c̣n trở lại phạt Sở. Tiền căn hậu kiếp vay trả, quả báo y nhiên. Có một điều lạ là với Lữ Mông, oan nghiệt có khác. Tiền kiếp của Lữ Mông là ông thợ rèn, Quan Vân Trường đến mướn rèn Thanh Long Đao với một kiểu mẫu bí mật mà Ngài không muốn có người thứ nh́ biết đặng. Khi rèn xong, Ngài cầm ra sân đi thử đường đao, chợt nghĩ đến điều ấy liền day lại vớt ông thợ rèn đứt đoạn. Ông thợ rèn ấy sau đầu kiếp làm Lữ Mông. Cho nên buổi Ngài xuất thần qui vị là trả cái ngày giết ông thợ rèn, là Lữ Mông đầu kiếp trả báo giết Ngài.

Khi Chơn linh của Ngài xuất ngoại, Châu Xương và Quan B́nh cũng tự tử chết theo, ba người ấy bay giữa không trung, đi ngang ngôi chùa kêu ông thầy chùa là Phổ Tịnh đ̣i ông nọ trả cái đầu, ông bèn lấy cái quạt gơ trên cửa tụng ba phiến văng sanh, Ngài hạ giáng xuống tiếp đ̣i đầu nữa. Ông nọ cười nói rằng: "Nhan Lương, Văn Xủ kia mới đ̣i đầu với ai? Ấy là tiền căn báo hậu kiếp thôi chớ". Đức Quan Thánh Đế Quân tỉnh ngộ, xin ông Phổ Tịnh cho Ngài ở đó đặng tu, Chơn linh của Ngài nhờ ở nơi chùa đó mà hiển Thánh. Khi hiển Thánh rồi Ngài trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến bây giờ không tái kiếp lần nào nữa, duy dụng cái quyền hành thiêng liêng mà hành Đạo thôi. Với quyền thiêng liêng ấy mà Ngài lập được Phật vị là Cái Thiên Cổ Phật, nhờ vạn linh tôn trọng Ngài lên. Bần Đạo dám quả quyết Ngài không phải là Thiên Phong mà chính là người của vạn linh bầu cử. Cho nên Đức Chí Tôn mở Đạo là cơ quan hiệp nhứt vạn linh, để Đấng ấy là một Trấn Oai Nghiêm đặng làm quan Trạng Sư cho vạn linh đạt kiếp.

Bần Đạo tưởng nếu có sự công chánh ở Ṭa Hư Linh kia ta nên gọi điều ấy là điều công chánh đệ nhứt mà Chí Tôn quyết định vậy. Nên Hớn Thọ Đ́nh Hầu lập thiêng liêng vị với Chơn linh của ḿnh đặng. Đó là chỉ rơ cho cả con cái của Thầy biết rằng không phải chết là hết, chết ấy là sống, mà cái sống nơi Thầy mới oai quyền chơn thật hơn cái sống hiện tại thế nầy.

 

Phụ ghi:
Cuối những đoạn có dấu (*): Để cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.


 

38- HỘI THÁNH LÀ G̀?

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm 28 tháng 6 năm Mậu Tư (dl. 03-08-1948)

 

Hôm nay Bần Đạo giảng Hội Thánh là ǵ?

Bần Đạo đă nhiều phen giảng giải Hội Thánh là Thánh Thể của Đức Chí Tôn tức nhiên là xác thịt của Ngài tại thế. Ấy vậy chúng ta đặng may duyên, nên buổi thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ hỗn loạn, sa ngă vào đường tội lỗi, sự tàn ác của đời đương nhiên chúng ta phải gớm sợ, Chí Tôn lại đến đặng d́u con cái Ngài, tức là các nguyên nhân của Ngài tại thế, từ bấy lâu nay bị sa ngă vào đường tội lỗi. Ngài đến qui hội cùng Ngài và chính ḿnh Ngài đi t́m con cái của Ngài mà thôi. Ngài đến chẳng phải một ngày một bữa mà cả mấy ngàn năm. Ngài giáng trần với sự đau khổ nhọc nhằn, nhưng vẫn cam chịu. Ngài t́m phương pháp để tận độ chúng sanh, cơ tận độ ấy chưa thành tựu, họ c̣n bị kẹt vào ṿng tội lỗi tại thế nầy cửu nhị ức nguyên nhân, Ngài đến gom về hết trong thời kỳ ân xá thứ ba nầy, chúng ta không dè ngày nay hưởng đặc ân của Ngài, được nắm quyền hành làm Thánh Thể cho Ngài, tức nhiên là Ngài vậy. Chúng ta thấy mặt luật thiên nhiên dầu cao xa khó khăn đến đâu, xem cơ tương đối ở hữu h́nh cũng có thể hiểu được. Một ông cha đă tới giờ qui liễu, nh́n lại gia đ́nh sắp con đă nên gia thất chỉ c̣n vài đứa nhỏ dại, chưa đủ trí khôn; ông cha ấy phải thống khổ biết chừng nào, khi thấy đứa trẻ ấy bơ vơ, nếu ḿnh rủi chết hoàn cảnh ấy ông phải định thế nào, lẽ cố nhiên là ông kêu người con trai lớn của ông lại dặn ḍ cặn kẽ: Khi cha có mất rồi th́ con phải thương em con c̣n nhỏ, bảo trọng cho nó, tạo tương lai hạnh phúc cho nó. Người anh nghe cha di chúc th́ lo t́m phương dạy dỗ em thế nào cho nên người và đến một ngày kia các con ấy sẽ trở nên hiển đạt đi rồi, thiết tưởng gia đ́nh ấy hạnh phúc biết chừng nào. Hạnh phúc hơn khi người cha ấy trông thấy con ḿnh cao sang vinh hiển hơn ḿnh.

Đức Chí Tôn kỳ nầy muốn chính ḿnh Ngài đến cứu vớt con cái Ngài, nhưng Ngự Mă Quân của Ngài không cho Ngài đi, v́ biết Ngài mỗi khi xuống thế phải chịu thống khổ vô ngần, nên Ngự Mă Quân quyết định đến thế cho Ngài. Chúng ta tưởng tượng sự thế ấy nếu Chí Tôn ưng chịu, th́ Ngự Mă Quân phải hứa cứu vớt hết cả con cái của Ngài và lại dặn: "Bây muốn đến thế Tao mà ở với con Tao th́ Bây phải làm sao bảo trọng chúng nó vẹn toàn để đem về đông đủ cho Tao và phải đủ can đảm và năng lực thay thế Tao bên cạnh chúng nó. Nếu Bây không muốn cho Tao làm th́ Bây phải làm như Tao mới đặng". Tôi tưởng Ngự Mă Quân đến thế cho Ngài, phải lựa chọn trong hàng lương sanh con cái của Ngài để làm h́nh ảnh cho Ngài, như vậy Ngài mới chịu. V́ cớ Hội Thánh là Thánh Thể của Đức Chí Tôn, cho nên khi Ngài lập Pháp Chánh Truyền cho Thánh Thể của Ngài, Ngài định một người để làm Anh Cả trong bầy con của Ngài. Người Anh Cả ấy phải làm cha và làm thầy trong khi Chí Tôn vắng mặt. Ngặt một điều là ḿnh không xứng đáng đó thôi, chớ không buổi nào Chí Tôn không công nhận và không chịu, một khi ḿnh đủ đức tánh thay thế cho Ngài. Nếu Thánh Thể của Chí Tôn tại thế nầy mà dạy dỗ, cứu vớt con cái của Ngài được toàn vẹn y như ư định của Ngài th́ thiết tưởng không có ǵ làm cho Ngài vui sướng bằng! Ấy vậy, Hội Thánh dầu Nam dầu Nữ, tức là h́nh ảnh của Chí Tôn, Chí Tôn giao cả đảm nhiệm làm cha và làm thầy. Hễ thay thế Chí Tôn làm cha làm thầy th́ tức nhiên ḿnh là cha là thầy, nếu làm cha cho xứng đáng cha, làm thầy xứng đáng thầy, th́ chúng sanh làm thế nào mà không tôn trọng như cha như thầy được.

Trong đám anh em chúng ta ngồi tại đây, cùng sắp em nhỏ kia trong đó cũng có vị Phật, Tiên giáng thế, nhưng c̣n chờ chúng ta lập vị cho nó, bởi nó c̣n khờ nên giao chúng ta giáo hóa nó để một ngày kia chúng nó đạt đến tinh thần cao trọng đặng lănh sứ mạng của Chí Tôn phú thác. Vậy, ngày giờ nào chúng ta đủ quyền năng để giáo hóa đoàn em sau nầy đặng vào địa vị, tức nhiên chúng ta đă trọn đạo đối với Chí Tôn.


 

39- PHÁP CHÁNH HIỆP THIÊN LÀ G̀?
VÀ H̀NH LUẬT TAM GIÁO LÀ G̀?

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 1 tháng 7 Mậu Tư (dl. 05-08-1948)

 

Từ thử đến giờ chúng ta thường quen gọi là Ṭa Hiệp Thiên Đài hay là Ṭa Tam Giáo, nên đă 23 năm Đạo, mà chúng ta vẫn chưa biết chỗ dốt của ḿnh. Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn buổi nọ giáng bút hỏi Bần Đạo một câu bằng Pháp văn: "EXPLIQUEZ ÉTYMOLOGIQUEMENT LE MOT T̉A?" (Vậy chớ theo ngữ nguyên tiếng Ṭa nghĩa là ǵ?). Bần Đạo trả lời: "Thưa Ngài, kêu Ṭa là nơi để định án, xử tội kẻ phạm luật pháp". Ngài cười và nói: "Trật, gọi Ṭa là khi nào Ṭa nhà, hay Ṭa lâu đài ǵ đó, chớ tiếng Ṭa không có định nghĩa về phương diện Pháp Chánh cả". Bần Đạo thừa dịp nhờ Ngài dạy nữa. Ngài nói: "Cái tiếng của Chí Tôn đă đem đến đặt để nó khéo léo hay ho biết bao nhiêu, nghĩa lư rất thâm diệu mà tại sao lại không dùng. Đức Chí Tôn đến lập Pháp Chánh Truyền, giao cho Hiệp Thiên Đài ǵn giữ. Trong đó có diệu pháp của Chí Tôn đến lập vị cho con cái của Người tại thế gian nầy, Ngài mượn xác thịt của con cái Ngài tổng hợp lại cho nó có trật tự, có đẳng cấp, tức nhiên là lập Thánh Thể của Ngài, các phẩm trật có liên quan với các phần tử tức nhiên Hội Thánh tổng hợp là Thánh Thể của Ngài. Ngài lập Pháp Chánh Truyền cốt ban quyền hành cho Thánh Thể của Ngài, mà hễ đạt quyền được, tức nhiên về với Ngài được. Ấy vậy, Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên là phương định vị, lập quyền đặng hiệp một con cái của Chí Tôn cùng Chí Tôn vậy".

Tới h́nh luật Tam Giáo: Từ thử Tam Giáo có Nho, Thích, Đạo, luật Tam Giáo có hữu h́nh, có luật h́nh, v́ cứ nói án nên nói là phạm luật Thiên Điều mà thôi. Luật h́nh ấy gồm cả tôn chỉ của Tam Giáo đem đặt tại thế nầy cho thiên hạ thật hành, nhưng lần lần càng xa khuôn luật.

Ấy vậy, có hai phần:

Pháp Chánh Hiệp Thiên.

H́nh Luật Tam Giáo.

Tuy hai phần khác thể, nhưng cũng đều giao cho Hiệp Thiên Đài chưởng quản hết. Nếu muốn gọi cho trúng th́ gọi Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài là đủ nghĩa.

Bần Đạo giảng nghĩa: Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài là ǵ? Cốt yếu của Đức Chí Tôn đến thế ban quyền hành cho Thánh Thể của Ngài, Ngài buộc quyền Thiêng Liêng kia hễ con cái của Ngài đắc phẩm hữu vi ở dưới thế nầy được toàn vẹn, th́ cũng phải nh́n nhận phẩm ấy ở cơi hư linh kia. Bần Đạo tưởng nếu không phải tay của Chí Tôn th́ không ai có quyền buộc các Đấng cầm quyền chánh trị của Càn Khôn Thế Giới là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải nghe theo như vậy bao giờ.

Ta cứ suy nghĩ: Một ông cha thương con nói: Tao đến với con Tao, Tao định cho nó làm Tể Tướng tại thế gian nầy, th́ cả triều chánh phải nh́n nó là Tể Tướng, chớ không phép cải, chỉ vâng mạng lịnh Tể Tướng của nó mà thôi. Thiết tưởng nếu không phải nhà vua th́ không ai biểu như vậy mà dân phục lịnh. Nếu không phải Chí Tôn đến lập giáo th́ không ai đến đây mà có quyền buộc Cửu Thiên Khai Hóa nh́n nhận Thánh Thể của Ngài được. Tại sao Ngài giao cho Hiệp Thiên Đài? Nếu cả Pháp Chánh đó không người cầm để thực hiện th́ cả giá trị lẫn thể thống đều mất hết. Từ ngôi Giáo Tông đến ngôi Đầu Sư, giữa có ngôi Chưởng Pháp, nếu không phải Pháp Chánh do Hiệp Thiên Đài nắm giữ th́ họ tông lúng, tông hoài, tông măi măi làm cho loạn Đạo theo tấn thảm kịch, ta đă thấy diễn đi diễn lại nhiều lần, mà thử hỏi tại sao họ tông không được? Là tại Hiệp Thiên Đài cầm Luật chắc chắn không cho loạn hàng thất thứ đặng. Họ tông mặc họ, Hiệp Thiên Đài cứ nắm giữ chặt chẽ, mà định phẩm cho con cái của Đức Chí Tôn mà thôi. Nếu chẳng vậy, nghĩa là nếu Hiệp Thiên Đài để họ tự do hành động, th́ phải đắc tội với Chí Tôn, v́ Chí Tôn đă giao cho ǵn giữ cái kho tàng đă định Thánh Thể của Ngài định vị cho con cái của Ngài y như đă giao cho ǵn giữ, cái kho tàng đă định chia cho đứa lớn bao nhiêu, đứa út bao nhiêu, rồi Hiệp Thiên Đài để cho người mạnh giựt giành tài sản của mấy người khác, hỏi vậy người lănh lịnh đảm nhiệm chia của ấy, sẽ bị h́nh phạt như thế nào? Nếu không có người cầm giữ kho đó đặng phân phát công b́nh cho con cái của Ngài th́ sợ e thiên hạ giựt giành hết mà con cái của Ngài không hưởng đặng, gia tài để dành cho họ mà chớ. Ấy vậy, hàng phẩm mà Pháp Chánh đă định, cốt yếu hiệp con cái Chí Tôn lại làm một cùng Ngài, mà muốn cho đặng hiệp cùng Ngài, th́ Ngài để cho Hiệp Thiên Đài chưởng quản giữ ǵn nghiêm luật Pháp Chánh đó. Một người về Đạo là Thượng Phẩm cầm quyền Luật Đạo định phẩm vị; một người về Thế tức là Thượng Sanh đem con cái của Đức Chí Tôn vào cửa Đạo, d́u dắt con cái Ngài không ai đặng phép ngăn đường đón ngơ. Đại nghiệp của Chí Tôn để lại mặt thế nầy cho toàn cả nhơn loại, không ai có quyền giành hưởng một ḿnh. Định luật như vậy mới là công b́nh và chánh đáng. Bần Đạo lập lại: Pháp Chánh cốt yếu lập quyền cho con cái Đức Chí Tôn, có hàng phẩm, quyền hành, thứ tự, đẳng cấp, giao cho Hiệp Thiên Đài sắp đặt không cho loạn hàng thứ thất, nếu loạn hàng thất thứ th́ Đạo tiêu diệt.

Bây giờ nói qua h́nh luật Tam Giáo: Đạo Cao Đài không phải lấy nguơn chất của Tam Giáo làm căn bản, mà chỉ lọc lượt chơn truyền của các Tôn Giáo trên địa cầu nầy mà tổng hợp lại. Tại sao lại kêu h́nh luật Tam Giáo mà thôi? Bởi ngày nay Tam Giáo qui nhứt. Các Tôn Giáo trên thế gian nầy th́ nhiều mà không ngoài khuôn viên của ba Đạo lớn, có thay đổi chăng là v́ châm chế bớt ngoại dung, chớ bên trong đều do theo h́nh luật đó.

H́nh luật Tam Giáo để định án chăng? Thiên hạ sẽ nói Đạo ǵ mà có Ṭa Án? Người ta lầm! Vả chăng con người chỉ có quí ở cái Tâm và hạ sanh tại đây ít nữa phải có căn duyên sao đó mà ḿnh không biết đó thôi. Bần Đạo dám chắc dầu một vị chí Phật đến tại thế gian nầy mang thi hài xác thịt cũng quên hết tiền kiếp, cửa huệ quang bị bí lối, không tự biết ḿnh, không tự hiểu phẩm vị ḿnh, v́ mang xác phàm th́ cái ǵ cũng phàm hết. Duy có Đấng toàn năng, toàn tri, toàn thiện, toàn mỹ là Chí Tôn mới tránh khỏi chuyển kiếp luân hồi mà thôi. Ngoài ra không vị Phật nào tránh khỏi luân hồi cả. Các chơn hồn ở các cung, các động, hoặc ở Ngọc Hư Cung đến đây là có mạng lịnh đến tạo h́nh thể của Đức Chí Tôn, đó là những vị đại diện, c̣n tất cả bao nhiêu chúng sanh đều có căn nguyên, mà hễ có căn nguyên tức nhiên là có tội, phải đến đây đặng trả quả kiếp luân hồi.

Chí Tôn muốn cho con cái của Ngài nên Thánh th́ phải làm sao? Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch sẽ làm cho thiên hạ muốn gần, phải v́ thương mến kỉnh khen mà gần, v́ đáng tôn sùng yêu ái mà gần. H́nh luật Tam Giáo là nước Cam Lồ tắm rửa linh hồn vậy. Chơn truyền từ trước đến nay Chí Tôn để tại mặt thế trên các Đạo Phật, Tiên, Thánh, là phương để gội rửa linh hồn mà thôi, nhứt là Công Giáo có phép xưng tội là một bí pháp, nhưng ta không hiểu tại sao Chí Tôn lại không truyền chơn pháp. Ta nghĩ, có lẽ Đức Chúa Jésus Christ đă ban quyền cho những đại diện của Ngài, tức là cầm quyền Hội Thánh có đủ năng lực xá tội, nhưng trong khi hai đàng là kẻ xá tội và kẻ xưng tội, cũng có lẽ có người không thực tâm xưng tội, hoặc người không xứng đáng là người xá tội. Nếu xét ra người đến xưng tội và người xá tội cũng đều là phàm cả, chưa biết người nầy có xá tội được cho người kia chăng? Thảng không đủ quyền tha tội lại càng thêm mang tội hơn nữa. Hễ có tội tức có h́nh, có h́nh tức có phạt, có phạt phải thành án, mà án tiêu mới hết tội. Nên hễ có tội th́ phải trả, mà có trả rồi th́ mới hết tội. Nếu ḿnh không tự hạ ḿnh và không đủ can đảm cung khai th́ chịu lấy. Biết ḿnh có tội mà lại sợ nhục cái thanh danh phàm thể th́ hỏng cái phẩm vị thiêng liêng th́ rất nên đáng tiếc. Nếu biết trọng linh hồn th́ không ngần ngại ǵ, đến mấy vị Đại Thiên Phong cầm quyền Pháp Chánh kia cung khai đi, rồi họ lên án quẹt lọ cho ḿnh, không lẽ đem ra pháp trường xử trảm. Tội có quá nặng đi nữa, dầu Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài có trục xuất đi nữa cũng không hại ǵ. Nếu ḿnh biết ăn năn tự hối, tự tu thân tự giác tánh thêm nữa đặng đền tội, ḿnh tu một ḿnh dầu Hội Thánh không biết tới, ḿnh cũng vẫn tin rằng có Đức Chí Tôn chứng ḷng trọn hiếu với Đức Chí Tôn, ngày kia về cửa Thiêng Liêng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đẹp dạ hả ḷng tiếp rước trọng thể hơn nhiều, người trọn ǵn đạo đức v́ phẩm trật đă cao siêu từ trước giáng sanh lập vị, danh vị lập được của kẻ b́nh thường đâu bằng của kẻ biết ăn năn sám hối. Thảng như bị trục xuất mà tự ḿnh biết lập vị ḿnh, thế gian không hiểu th́ c̣n có Đức Chí Tôn hiểu, lập tâm mà tu th́ cửa Hư Linh kia cũng không đóng được. Những kẻ ấy do Đức Chí Tôn sắp đặt hàng thứ, nên Ngài đă nói: "Cửa Hư Linh không ưa kẻ tàn bạo, lạ thay Thiêng Liêng vị phần nhiều do những kẻ tàn bạo phá cửa chung vô". Thảng như ḿnh không đủ can đảm chịu án mà ḿnh tự tu sửa lấy ḿnh được, dầu trong Đạo Cao Đài đây không có hiểu biết th́ Chí Tôn cũng hiểu biết, anh em không hiểu ḿnh mà ông Cha ḿnh hiểu ḿnh là đủ rồi, sợ e ḿnh quá phàm mà phải thất Đạo, phải luân hồi măi măi mà thôi.

Bần Đạo dám nói rằng trong Càn Khôn này, số Hóa nhân c̣n có ít hơn là Nguyên nhân bị đọa trần, chịu luân hồi chuyển kiếp đặng đền tội nhiều phen, chỉ v́ quyến luyến phàm chất, không đủ can đảm thú tội trước Đức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu không muốn đợi để thú tội với Đức Chí Tôn th́ hiện giờ v́ biết ḿnh có tội đến thú tội với chư Đại Thiên Phong Hiệp Thiên Đài cầm quyền Pháp Chánh đó đi, rồi quyết chắc đă đền xong tội phạm ắt cửa Thiêng Liêng cũng khó định nghiêm h́nh, v́ cớ cố nhiên là một án chỉ có một h́nh.

Ngày giờ nào nhơn sanh chưa có can đảm thú tội của họ, th́ cửa Hư Linh vẫn c̣n chối họ măi măi.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
1 tháng 5 Mậu Tư (dl. 07-06-1948)
1 tháng 7 Mậu Tư (dl. 05-08-1948)
Chúng tôi chọn:
1 tháng 7 Mậu Tư (dl. 05-08-1948).
Nguyên bản chánh in là:
1 tháng 5 Mậu Tư (dl. 05-08-1948).


 

40- ĐỨC HỘ PHÁP DẠY.

 

ĐỨC HỘ PHÁP dạy:

Nền Đạo đă thông truyền Quốc Tế, vậy phải văn hồi các bản sắc trong lành cho xứng danh là Thánh Địa, hầu làm cái trụ cốt tinh thần cho nhơn loại hướng về tin tưởng.

Ngày 11-11 Giáp Ngọ (dl. 05-12-1954)

 

Đức HỘ PHÁP nói:

Cây cờ Cứu Khổ của Đạo Cao Đài là Thương Yêu và Công Chánh. Phải thực hiện được hai điều ấy, th́ Ḥa B́nh và Hạnh Phúc mới đến với chúng ta được.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
Ngày 11-11 Giáp Ngọ  nhằm ngày (dl. 05-12-1954) nguyên bản chánh in là: 11-11 Giáp Ngọ (1-1951).


 

41- ĐỨC TÁNH TRUNG HIẾU NGHĨA.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư mồng 6 tháng 7 năm Mậu Tư (dl. 10-08-1948)

 

Đêm nay, Bần Đạo giảng ba chữ TRUNG HIẾU NGHĨA bởi v́ Trung, Hiếu, Nghĩa là biểu hiện một chơn tánh của linh hồn cao trọng.

Nhà Nho nói: "Tánh tự tâm sanh". Đó là lư thuyết của Đạo Nho, chỉ biết có một điều là ta quan sát có thể thấy hiện tượng mà tả trạng h́nh được, v́ Đạo Nho chưa phải là một Tôn Giáo huyền bí. C̣n Đức Chí Tôn đến dạy ta biết rằng tánh là chơn tướng của chơn thần, c̣n tâm là chơn tướng của chơn linh. Chí Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là h́nh thể thứ nh́ của ta. H́nh thể thứ nhứt là tâm tức là chơn linh, thứ nh́ là tánh tức là chơn thần, thứ ba là xác phàm thú chất nầy. Chí Tôn hỏi: Tại sao từ trước đến giờ theo triết lư Đạo Nho lấy nghĩa "Tánh tự tâm sanh" mà tả ra? Bởi v́ nó có liên quan mật thiết cùng nhau. Trong tâm ḿnh như thế nào xuất tánh ra y như vậy. Nhà Nho thấy hiện tượng mà đặt tên, c̣n Chí Tôn chỉ rơ cho biết: Chơn thần cũng tấn bộ như chơn linh. Mỗi cá nhân đều có hai năng lực ấy có đủ quyền năng đào tạo ra h́nh hài xác thịt của ta. Một chơn linh cao trọng tự nhiên có một chơn thần cao trọng, bởi cả hai vẫn đi đôi đồng đường với nhau, cùng tấn triển trong con đường Thánh đức của Chí Tôn, cả hai có liên quan mật thiết, nên hễ chừng nào đạt pháp đặng có đủ quyền năng định vận mạng, nghĩa là nó đă tấn tới đúng mức rồi, dầu quyền của Ngọc Hư Cung cũng không c̣n lănh hội nó nữa, quyền tự chủ đă đạt đặng như các cơ quan hiển vi tấn triển tới mục đích tới giới định hiển nhiên ta thấy nơi mặt thế đây vậy. Trong Đạo Giáo của Đức Chí Tôn trích ra một hạng Tiên, không c̣n chịu quyền của Ngọc Hư Cung định luật họ tự làm chủ họ, tự dùng quyền năng đặng đào tạo xác thân của họ, tạo y khuôn khổ họ đă muốn. Họ tự vi chủ mà tạo h́nh thể ấy, bằng chẳng vậy th́ con thú là xác phàm của họ, sẽ lôi kéo ràng buộc, phản lại họ, làm cho họ phải đọa lạc. C̣n như con thú nầy không c̣n quyền lôi kéo họ được th́ họ mới đủ quyền năng vi chủ nó mà dục tấn trên con đường tận thiện tận mỹ, toàn tri toàn năng mà họ đă định đạt đến cùng tận sở hướng.

Chơn thần là đệ nhị xác thân tạo h́nh bằng ngươn khí của bảy từng thiên. Bỏ Tạo Hóa Thiên là từng thứ chín, linh hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết định đến thế gian nầy làm việc ǵ, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách, Đạo Giáo nói là 7 cái thi hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây. Bảy (7) từng có liên quan lạ lùng với thất t́nh, từng thứ 7, 6, 5 là ba (3) t́nh: Ái, Hỉ, Lạc; từng thứ tư là Dục; từng thứ ba là Ái; từng thứ nh́ là Ố; từng thứ nhứt là Nộ. Tới từng chót nầy th́ xác thịt là hiện tượng của Nộ giác.

Ấy vậy, Bần Đạo chỉ rơ rằng ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa do ở t́nh ái, phát hiện đó là cái t́nh độc nhứt có liên quan mật thiết với chơn linh. Ta thấy con nít sơ sanh, thi hài chưa biết vi chủ, nó chỉ sống với chơn linh mà thôi. Khởi đoan nó chỉ biết thương mến những kẻ gần gũi như cha mẹ; c̣n Chơn thần để ǵn giữ nó, cho nó biết t́m cái sống, bảo tồn sanh mạng. Thật ra theo Đạo Pháp, con nít từ 12 tuổi mới bị chịu ảnh hưởng của xác thịt, c̣n dưới 12 tuổi xác thịt chưa có quyền. Ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa thuộc quyền năng của ái t́nh mà ra nên gần gũi với chơn linh lắm, đến đổi ta thấy h́nh trạng nó như kẻ sơ sinh kia vậy; Bần Đạo vừa nói Trung, Hiếu, Nghĩa do nơi t́nh ái xuất hiện ra tướng diện, nên nó gần Thánh, một khi giải thể rồi lên từng thứ 7 là chắc chắn được giải thoát, đạt vị, bởi nó gần với Thánh.

Tại sao Trung? Tại t́nh ái cao thượng dồi dào đối với quốc dân ṇi giống lên đến nhiệt độ, nó quá vĩ đại. Nếu ta thấy một vị công thần liều mạng sống đặng bảo vệ cho quốc dân, trung ấy chưa phải là trung với vua, mà trung với nước chớ! Có điều vua là tượng trưng cho nước, nên trung với vua tức là trung với nước. Mà có trung đặng là v́ quyền năng ái chủng, ái quốc nuôi trong tinh thần nhiệt liệt, nên t́nh ái ấy vi chủ tinh thần, cho nên ta thấy có kẻ v́ trung dám hy sinh tánh mạng được là v́ vậy.

Tới Hiếu. Tại sao có Hiếu? Bởi các chơn hồn sáng suốt cao siêu đă có sẵn hai điều hiếu:

Hiếu với Đấng Tạo Đoan chơn linh.

Hiếu với Đấng Tạo Đoan chơn thần.

Bởi có hiếu trước với hai Đấng ấy, biết trọng hai quyền năng tạo hóa Chơn linh và Chơn thần th́ tự nhiên phải biết nh́n Đấng tạo hóa h́nh hài của ḿnh đồng thể chớ. Tâm hiếu tự nhiên mà xuất hiện v́ nó có sẵn, mà hễ có sẵn tâm hiếu tức nhiên phải là chơn linh cao trọng thấu đáo được nguyên do đâu ḿnh đến và là con của ai? Đă hiểu rằng ḿnh có hiếu với Đấng tạo sanh Chơn linh và Chơn thần như thế nào rồi, th́ đến hiếu với Đấng tạo sanh h́nh hài đă sẵn có rồi vậy. Nên, hiếu không thể dạy được, hoặc có hiếu, hoặc không có hiếu mà thôi.

Bây giờ tới Nghĩa. Tại sao ta có Nghĩa? Tại sao Nghĩa lại hiện tướng trên tánh đức của một chơn linh cao trọng? Nơi cơi Hư linh mỗi người có một gia tộc, một đại nghiệp, anh em đông biết bao nhiêu. Bần Đạo xin nhắc lại câu nầy cho toàn cả hiểu điều yếu trọng: Chẳng phải v́ sự t́nh cờ mà chúng ta được chung đứng trong ḷng của Đức Chí Tôn ngày nay đây. Biết đâu trong 24 chuyến thuyền Bát Nhă chở các Nguyên nhân hạ trần đặng làm bạn và độ rỗi các Hóa nhân và Quỉ nhân, lại không có chúng ta ngồi chung trong đó. Đă từng chia đau sớt khổ cùng nhau chẳng những trong thế giới nầy mà trong các thế giới khác nữa. Đă từng chung sống cùng nhau, cái thâm t́nh vĩ đại đă nhiều. Nếu cả thảy không nhớ lời nầy của Bần Đạo, đến khi linh hồn xuất ngoại rồi, sẽ ân hận biết bao nhiêu mà chừng ấy đừng trách Bần Đạo không chỉ trước. Không thương yêu nhau cho trọn nghĩa là lỗi tại mấy người đa, chớ không phải tại Bần Đạo không nói. Ban sơ, nơi cơi Hư linh, thọ nhứt điểm linh đến thế nầy tạo ngôi vị, làm bạn với biết bao nhiêu chơn linh khác, dầu nguyên do của ḿnh là thảo mộc hay thú cầm cũng phải có nhiều bạn, chừng nào đạt đến địa vị mới biết bạn nhiều. Người nghĩa ta có nhiều ở mặt thế nầy lo t́m người nghĩa đặng tương liên cấu hiệp tâm t́nh trong cảnh khổ năo, truân chuyên chịu h́nh thử thách nầy.

T́m mà vẫn lo ngại sợ lầm, bất kỳ gặp ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rủi ở bất nghĩa cùng nhau, về cơi thiêng liêng sẽ hổ thẹn hối hận muôn phần. Đối với nhơn loại ta đă sẵn có cái đại nghĩa đó, đi t́m nghĩa tức là đi t́m bạn, dầu nơi cơi hư linh hay tại thế, đại nghĩa vẫn c̣n lưu lại, ta không từ chối được, cho nên hễ đi t́m nghĩa th́ không c̣n phân biệt ai là người nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta t́m nghĩa ở đâu? Trước nhứt t́m thân tộc anh em sau mới ra toàn thiên hạ được.

Bần Đạo kết luận: Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một v́ Thánh, v́ cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm hiền th́ duy lựa trong ba tánh đức đó mà t́m th́ ắt t́m đặng không lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại, kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú h́nh và thú tính mà chớ.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
Ngày âl. 6 tháng 7 năm Mậu Tư nhằm ngày (dl. 10-08-1948) nguyên bản chánh in là: 6 tháng 7 năm Mậu Tư (dl. 09-08-1948).


 

42- LUẬT TƯƠNG ĐỐI HAY LÀ PHẢN ẢNH CỦA HAI THÁI CỰC CHƠN THẬT VÀ GIẢ DỐI.

 

Tại Đền Thánh, đêm 9 tháng 7 năm Mậu Tư (1948)

 

Cái hay của sự chơn thật đối với cái dở của sự giả dối, làm thế nào phân biệt? Trước khi giảng, muốn nói rơ hơn Bần Đạo mời tất cả đi theo Bần Đạo dùng phép hồi quang phản chiếu đem thần trí ra ngoài thể xác đặng quan sát lại ḿnh và hành tàng của thế nhân ra sao, mới quyết định điều hay lẽ dở của nó, giống như đám Thiên Quân Ngự Mă Quân, ngồi trên lưng ngựa chiến đấu về tinh thần với mặt thế.

Theo sau xe của Chí Tôn, chúng ta g̣ cương đứng lại b́nh tỉnh, nghỉ ngơi, giữa cảnh náo nhiệt của nhơn loại sắp diễn và xuống ngựa xem rơ lại sự sanh hoạt ấy đương nhiên ở vào mực độ nào, rồi ngẫm lại ta ở vào cảnh hư hay thiệt. Ta đàm luận vui vẻ cùng nhau sống, nhảy lên lưng ngựa nắm vững cương, thúc nó chạy theo kịp bước của Đức Chí Tôn.

Phép hồi quang phản chiếu mà Bần Đạo nói đây là tinh thần thoát ra khỏi thể xác, để quan sát trở lại h́nh trạng thi thể của nó. Ta thấy ǵ? Khởi đoan ta thấy ta sanh ra tại mặt thế, mang mảnh thi hài (nguyên căn của sự sống vật thể) lắm khi làm cho ta khó phân biệt được sự phải quấy, hoặc điều ḥa tâm lư.

Vừa lọt khỏi ḷng mẹ, chúng ta thấy miếng cơm vú sữa của bà mẹ, biết rằng bà sanh ta ra, nhận biết như vậy ta tự nhiên phải nương nơi bà mà sống, nếu ta không được bà nuôi dưỡng ắt ta phải chết, biết rơ như vậy nên đối với mẹ ta, có t́nh yêu ái tự nhiên về luật Thiêng Liêng đă định nên khi vắng mẹ ta th́ nhớ, sự thương yêu đối với mẹ là chơn.

Lớn lên chút nữa, hiểu rằng nếu không cha và mẹ th́ không có ta và cũng không biết tại sao mà biết ổng là cha, dầu trí khôn chưa đủ, Ông chạy bữa cho mẹ nuôi th́ ta hiểu ngay rằng nếu không ổng th́ mẹ ta không đẻ ta được. Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi nấng ẵm bồng và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng là cha (,)(*1) ta cũng trọng cũng thương yêu tự nhiên đó là chơn.

Thảng có kẻ nào nói má mầy tự nhiên đẻ mầy ra, đừng kính đừng trọng ổng, hoặc nói mầy ở dưới đất nẻ chun lên, đó là giả, c̣n bảo đừng nh́n ổng đó là dối.

Lớn lên nữa, thấy mẹ đẻ em ra, cũng nhờ có ông cha ta kia, ta chia nhau một mảnh chiếu, đắp nhau một mảnh mền, nhịn nhau từ hột muối, từ ngọn rau, t́nh cảnh ấy không cần tả, có điều ta thấy hẳn nó kết cấu khối t́nh ái thiên nhiên. Ngoài ra nếu cha khó, mẹ nghèo, anh em lao khổ, lại chia đau khổ cùng nhau và biết chắc rằng cả thảy do mẹ sanh ra, biết nhau đồng chung máu thịt đó là chơn.

Bây giờ có ai nói, anh em mầy không bằng tao, tao đối với mầy nhơn nghĩa đầy đủ t́nh cảm đặc biệt tao đối với mầy, anh em mầy không có, đó là giả, biểu phản nghịch lại anh em đừng nh́n nhau, nhà mầy, mầy ở, cơm mầy mầy ăn, đó là dối.(*)

Trộng chút nữa, cha đem đến trường, ḿnh đương dốt lấy làm lạ, chữ viết cong queo mà nghĩa lư thâm thúy, ḿnh không biết đọc sao ông thầy giỏi hơn ḿnh mà tự biết ḿnh bơ vơ rồi nhờ ông đó, vậy ḿnh trí hóa mở mang bỗng sanh ra thương mến, ổng dạy ḿnh biết nhiều quá nên phải kính trọng thương yêu ấy là chơn.

Thảng có kẻ nào nói: Cái ông đó mà biết cái ǵ, ổng nhồi sọ ḿnh cho ngu cho dại cho điên cuồng. Không phải dạy khôn mầy đâu mà mầy kính trọng, đó là giả. Nếu biểu phản nghịch và nói nay mầy giỏi hơn ổng đa, mầy hỏi th́ ổng bí ngay, đừng kính trọng làm ǵ đó là dối.

Tới nữa, ngoài cha mẹ và thầy, ta thấy ông già ḿnh không có dệt vải mà có áo mặc, hỏi ra th́ ổng làm ra tiền mà may cho ḿnh, nhà ḿnh không có rèn mà ḿnh có dao chặt củi, biết rằng ông già ḿnh làm ra tiền mẹ ḿnh mua, thấy không làm ruộng mà ḿnh có cơm ăn, đó là ông già ḿnh làm mướn lấy tiền mua gạo.

Ấy vậy ta mới biết rằng ta sống đây phải nương vào xă hội, có những vật không phải ḿnh làm được đă có kẻ khác làm, ḿnh làm công lấy tiền mua sắm, sự sống có liên quan mật thiết lạ lùng với chung quanh ḿnh, với những bạn đồng chung sống, nên cả quốc dân yêu mến nhau, rồi quyết định rằng: Bao nhiêu người làm việc kia nuôi ḿnh, người ta canh gác giữ trộm cho ḿnh yên ổn, người ta đốn cây tạo nhà cho ḿnh ở, cả thâm ân đó giục ta yêu ái, kính mến coi cả thảy toàn quốc dân là phần tử thân mến của ḿnh, đó là chơn.

Bây giờ có kẻ nói, nếu không có họ, mầy sẽ ăn nhiều hơn, tại có họ mầy bớt ăn lại mà c̣n phải thiếu, nhà mầy th́ mầy ở nếu không có họ giành cây, không chừng mầy sẽ cất lầu đài. Có họ không ích ǵ, trái lại họ c̣n giành ăn với mầy, nói như vậy là dối, biểu nghịch họ và diệt họ, th́ ḿnh sẽ sống hạnh phúc hơn, đó là giả.

Tới nữa ta thấy luật gia đ́nh ở trong nước, một gia đ́nh không thể trọn trong hoàng đồ được, phải nhiều gia đ́nh hợp lại gọi là bá tánh, mà nhiều gia đ́nh chung hợp th́ đất đai sẽ được mở mang rộng hơn nước giàu dân mạnh. Vậy làm chủ đặng giữ ǵn đại nghiệp đó cho trọn vẹn phải ai mới được? Một gia đ́nh không đủ, phải cả một Triều Chánh, trên Triều Chánh có một vị chúa làm chủ đặng bảo trọng đại nghiệp ấy được vững tồn, cho nên vị Chúa ấy hay là Vua hoặc Tổng Thống làm chủ cả nước ǵn giữ quốc thể giống ṇi của ḿnh. Thảng như Hoàng Đồ nầy bị tiêu hủy th́ ḿnh sẽ ra thế nào? Ḿnh sẽ giống như Mán Mọi nay ở chỗ nầy, mai đi chỗ khác tàn sát nhau, xô đuổi nhau như dân tộc Do Thái ngày xưa, không quê hương, không Tổ Quốc, ăn nhờ ở đậu trên khắp mặt Địa Cầu. Vậy chúng ta phải bảo thủ Hoàng Đồ của Tổ Phụ ta đó là chơn.(*)

Bây giờ có kẻ hỏi: Tổ Phụ mầy đâu phải ở mặt đất nầy, Tổ Phụ mầy không phải nội đây, cả Địa Cầu nầy cũng là Tổ Quốc mầy được. Họ xúi ḿnh đừng nh́n Tổ Quốc ḿnh, là giả. Nếu nói rằng: Cả chủng tộc nầy là kẻ thù địch của mầy, họ đày đọa mầy vào cảnh khổ, họ sung sướng tấm thân họ, đó là dối.

Cao hơn nữa ta thấy trên mặt Địa Cầu nầy, ṇi giống nầy khác màu da với ṇi giống kia và có những chủng tộc bất đồng ngôn ngữ, song cái cười cái khóc vốn như nhau, trạng h́nh đều giống, mà tiếng nói có đó chỉ là định ngôn đặng để hiểu nhau mà thôi. Không phải duy có điều đó mà buộc ḿnh đừng nh́n nhơn loại đồng căn bản, phải coi nhau là bạn đồng sanh đặng kính trọng lẫn nhau. Hễ là bạn đồng sanh tức nhiên liên quan mật thiết nhau, như trong gia đ́nh vậy. Một gia đ́nh nào rân rát, sanh sản con cháu đông đảo và có phương sống đầy đủ gia đ́nh, đó là vui vẻ. Nếu trong gia đ́nh nào rủi ro con cháu hay họ hàng chết th́ trong (trông?)(*2) thấy ai bi lạ lùng, một ông cha v́ con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô đối. Ta kính trọng mạng sanh của tất cả dị nghĩa đồng sanh, rồi ta nghĩ suy cho thấu đáo thấy bổn phận của ta là bảo trọng mạng sanh anh em của ta khỏi phải đổ nước mắt, phận sự ta đối với cảnh tượng đó là chơn.

Bây giờ có kẻ nói cả sanh mạng trên mặt địa cầu nầy không quan trọng, mầy có thể làm chủ được th́ đoạt quyền làm chủ, giá trị mạng sanh không có nghĩa ǵ đâu. Cả sanh mạng ấy là lợi khí để mầy dùng làm bá chủ thiên hạ chẳng có t́nh cảm ǵ cả, đó là giả dối.

Đứng về mặt tinh thần, mặc t́nh tấn tuồng giả dối và chơn thật, hiện tại diễn ra, nếu ta biết lấy tâm linh tự chủ mà quyết đoán, quan sát trong kiếp sống của xă hội nhơn quần th́ không ai gạt gẫm ta đặng. Ta phân biệt được cái dở và cái hay th́ ta sẽ làm chủ nó đặng.

Bây giờ nói rằng tinh thần đă biết phân biệt h́nh trạng vật thể, mà lại nói cả thế gian duy nhờ sự giả dối mà sống như Tào Tháo đoạt nghiệp Hớn cũng nhờ giả dối. Khổng Minh thắng Châu Công Cẩn cũng nhờ giả dối, đó là Á Đông. C̣n bên Âu Châu nói nhờ Machiavel giả dối mà nước Ư mới tồn tại, đó là mộng mị, không phải chơn thật không một người nào, một cơ nghiệp nào sản xuất trong sự giả dối mà tồn tại được.

Trí ta sáng suốt sẽ thấy và hiểu như vậy, thảng như những người mà thiên hạ cho rằng: Nhờ sự giả dối mới làm nên đại nghiệp nơi mặt Địa Cầu nầy th́ Bần Đạo nói có lẽ như Hoàng nghiệp Romain hay Tần Thủy Hoàng ngày nay đă c̣n chi nói thử? Nếu quả nhiên sự giả dối tạo nên những sự nghiệp đó th́ quyết định chẳng c̣n tồn tại bởi sự nghiệp đó do sự giả dối xô ngă, đài Tần, đảnh Hớn ngày nay lưu lại những ǵ? Nếu cơ nghiệp vĩ đại tạo thành nhờ trí óc xảo trá th́ nó cũng theo sự xảo trá ấy mà tiêu diệt.

Xem lại tinh thần các Đạo Giáo, như Gia Tô, Khổng Tử, Lăo Tử, Thích Ca, không dùng một lưỡi gươm một ngọn súng mà cầm chắc qui nghiệp, dầu không làm được bá chủ cả Địa Cầu trọn vẹn, mà qui nghiệp ấy vẫn c̣n tồn tại là sao? Là tại thực hiện được sự chơn thật và nương sự chơn thật ấy mà tạo nghiệp, th́ nghiệp ấy mới được vĩnh cửu trường tồn.

Trong Đạo Cao Đài ngày nay cũng vậy, tại sao Bần Đạo c̣n dám ngồi tại đây làm tôi tớ cho con cái của Đức Chí Tôn, để tạo nghiệp cho họ mà Bần Đạo quả quyết làm đặng? Là v́ biết trong cảnh nguy vong kia, họ tưởng nhảy ra với quyền năng của Đạo nầy có thể diệt trở lại Bần Đạo, họ quên nơi đây là Ṭa Thánh, là nơi Đức Chí Tôn đến nhứt định lập ngôi vị của Ngài trong mọi sự cố gắng của con cái Ngài, tượng nên khối tinh thần vững chắc th́ ai có đủ quyền năng nào mà diệt được. Bởi thế họ không diệt được nên dầu khổ năo thế nào, Bần Đạo quyết chống xem ngày tàn cuộc.

Họ làm thử, ít nữa phải ḍm ngược lại coi, khi họ lấy năng lực của Đạo ra làm năng lực riêng của ḿnh có c̣n tồn tại được chăng? Chắc chắn rằng không. Bởi vậy trong buổi loạn Đạo người nầy, người nọ t́m đủ phương thế diệt trừ đảng phái. Bần Đạo đă nhận định được nên mới biểu họ cứ việc làm đi, rồi sẽ thấy cái ngày của sự chơn giả xuất hiện. Tấn tuồng đó đă rơ rệt lắm, Bần Đạo nói thật rằng: Năng lực mà họ đem ra ngày nay thi thố với Ṭa Thánh, ngày kia mấy em và mấy con sẽ đắc thắng. Họ sẽ làm mọi không cơm cho mấy em và mấy em v́ lẽ sống của họ thiếu sự bảo trọng cho chơn thật th́ chết rồi cũng buông rơi sự nghiệp vào tay mấy em mà thôi.

Sự chơn thật của Chí Tôn bao giờ cũng tồn tại sự chơn là một năng lực tinh thần, không tinh thần nào đối chọi đặng. Ngày giờ nào Thánh Thể của Đức Chí Tôn biết bảo trọng sự chơn thật cho toàn Đạo, th́ không có năng lực nào thắng nổi quyền hành Thánh Thể của Ngài đặng.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 09-07-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 13-08-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Lớn lên chút nữa, ... ... .... Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi nấng ẵm bồng và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng là cha (,) ta cũng trọng cũng thương yêu tự nhiên đó là chơn.
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Lớn lên chút nữa, ... ... .... Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi nấng ẵm bồng và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng là cha, ta cũng trọng cũng thương yêu tự nhiên đó là chơn.
(*2) Nơi đoạn thứ 16: Cao hơn nữa ta thấy trên mặt Địa Cầu nầy, ... ... .... Nếu trong gia đ́nh nào rủi ro con cháu hay họ hàng chết th́ trong (trông?) thấy ai bi lạ lùng, một ông cha v́ con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô đối ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Cao hơn nữa ta thấy trên mặt Địa Cầu nầy, ... ... .... Nếu trong gia đ́nh nào rủi ro con cháu hay họ hàng chết th́ trông thấy ai bi lạ lùng, một ông cha v́ con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô đối ...
Cuối những đoạn có dấu (*): Để cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.


 

43- HUẤN TỪ LỄ MĂN KHÓA HẠNH ĐƯỜNG.

 

Ngày 12 tháng 7 năm Mậu Tư (1948)

 

Đáp từ hai bài diễn văn của hai vị Lễ Sanh Tân Phong Phạm Hải Tống, Đinh Công Cự.

Qua lấy làm hân hạnh thấy được tinh thần tấn hóa của toàn thể mấy em, mấy con tưởng chừng không chi thỏa măn hơn. Từ 23 năm Đạo mà Qua trông cậy hơn hết, là thấy mấy em tấn hóa về đạo đức tinh thần th́ không có mùi vị nào ngon hơn tưởng như ḿnh đương thèm thuồng món ăn, dầu rau dầu củ mà khi thèm ăn cũng ngon lành mà chớ.

Qua thèm cái món ăn mà mấy em vừa cho Qua ăn đó, v́ Qua nghe nó ngon làm sao, Qua để lời khen hai em đó. Ngoài ra Qua xin giải nghĩa cho mấy em biết phận sự của ḿnh rồi mới hiểu được phận sự của chúng Qua tức là của toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn, có vậy mới phân định được nhiệm vụ trọng yếu tương lai như thế nào, các cơ quan đương nhiên cố tâm giáo hóa mấy em, mấy con, là một điều trọng yếu hơn hết, không làm điều ấy không đặng, tại sao không làm không đặng? Là tại không lẽ đại nghiệp của Thánh Thể Đức Chí Tôn, tức toàn Hội Thánh từ thử đến giờ, mà mấy anh của Qua kế tiếp, mấy Qua đă biết bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu nước mắt, đă chịu bao nhiêu khổ năo xác thịt lẫn tinh thần, chỉ mong ước có một điều là đại nghiệp thiêng liêng nầy được tồn tại, cả thảy đều biết rằng: Không có ai lột da mà sống đời, trước qua th́ sau tới kế nghiệp đặng trường tồn, ngày nay phận sự của mấy Qua d́u dắt mấy em, mấy con, đó là cả đại nghiệp tinh thần, mà trước khi giao, phải lựa, phải chọn, cho có người xứng phận bảo thủ vững vàng đại nghiệp đó mới phải.

Ngày nay đứng trước mấy em, Qua lấy làm đau ḷng mà nói, biết nói ra mấy em sẽ ngán mà sự thật buộc ḷng phải nói. Đạo chưa đủ ǵ hết, mười phần Đạo kể cả hữu h́nh hay Thiêng Liêng, về mặt vật chất hay mặt tinh thần, chúng ta đi chưa được hai phần mười, sự thật là vậy.

Ngày kia tới phiên mấy em, cầm vận mạng của Đạo, cầm quyền hành của Đạo, chừng đó mấy em sẽ thấy rơ, càng ngày càng tấn triển măi, nền Đạo của chúng ta có phận sự khó khăn hơn hết là, đảm nhiệm đứng ra dung ḥa tâm lư tín ngưỡng của nhơn loại. Phải đối phó với các Tôn giáo hiện hữu trên mặt địa cầu. Thiên hạ ai cũng phải nh́n nhận, ai cũng biết rơ rằng các Tôn giáo ngày nay, đă lầm lạc, đă thất chơn truyền, tinh thần nhơn chủng đương t́m kiếm một mănh lực tinh thần nào chan chứa tâm đức có thể làm cho ḿnh thỏa măn, ngày giờ nầy họ đương tiềm tàng, họ vẫn c̣n thiếu, vẫn c̣n khao khát, họ đói kém tinh thần, họ c̣n đói kém tín ngưỡng. Ta thấy Đức Chí Tôn đến tạo Đạo Cao Đài tại mặt thế này, Ngài mới lập Hội Thánh, đặng làm Thánh Thể của Ngài. Bởi Ngài muốn chung sống với con cái của Ngài, câu ấy giá trị như thế nào, mấy em rán t́m hiểu, ngày nay dầu phẩm nào, dầu một vị chí Phật, như Phật Thích Ca kia nữa, đến lập giáo, đáng lẽ Đạo Phật vững chắc lắm vậy, đặng làm tâm lư nền móng cho toàn nhơn loại, Qua dám nói rơ rằng, kể các Tôn Giáo không Tôn Giáo nào chơn chánh bằng Đạo Phật, mà Phật Giáo c̣n mất năng lực cứu thế độ nhân, chỉ có ở Á Đông đây, c̣n phía Âu Châu thiên hạ đương tiềm tàng quan sát triết lư cứu khổ, Qua nói thiệt đạo đức tinh thần của các Tôn Giáo chưa làm thỏa măn tâm lư của loài người, họ c̣n đương thèm thuồng khao khát.

Ta thử hỏi Chí Tôn Ngài muốn chính ḿnh Ngài đến với con cái của Ngài, là ư tứ ǵ vậy? Ngài đến như là phương pháp chót, hơn thua ǵ cũng tự ở nơi Ngài mà thôi.

Ngài nói: Thầy quyết đến với các con, nếu các con lập Đạo không thành th́ chính ḿnh Thầy phải tái kiếp, họa may chăng, một ḿnh Thầy mới đủ quyền năng làm tinh thần loài người, chỉ đặng an ủi và thỏa măn, Thần cũng có, Thánh cũng có, Tiên cũng có, mà Phật cũng có. Ngài đă sai đi đủ hết, nhưng tinh thần nhơn loại vẫn c̣n đớn đau khao khát, ḷng hoài vọng cho nên mới đến giai đoạn nầy.

Đồ đệ của ông là Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi Ngọc Hư Cung đă cầu khẩn xin Người đừng giáng thế, nếu như Người không đến, ta thử hỏi có ai lập Đạo nên đặng cho đời chăng? Chí Tôn đă nói: Nếu các con lập không thành th́ Thầy phải giáng thế. Đă can ổng th́ ḿnh phải làm cho được, xét ra các phần tử của mấy em ở trong Thánh Thể là ổng vậy, mấy anh thay thế h́nh ảnh Đức Chí Tôn trong phần tử của ổng định, biết đâu khi ta đă cầu khẩn ngăn cản tái kiếp của Chí Tôn mà ta không hay biết nên phải đứng vào Thánh Thể của Ngài.

Qua nói đây không chừng phạm thượng, Qua muốn tạo mấy em thành ông Trời ở mặt thế nầy, nếu mấy em thành ông Trời được, đó là điều sở vọng đệ nhứt của Qua hơn hết, sợ bí mật đó không nên nói là mấy em có thể làm Trời được. Phải làm được Qua biết chắc làm được, buổi nầy không làm được th́ sau nầy cũng sẽ làm được, ngày giờ nào Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến cơi trần thay thế cho h́nh ảnh Đức Chí Tôn, họ đến với Thánh tâm toàn vẹn th́ chừng ấy sẽ quả quyết làm được.

Chúng ta đây bất quá là kẻ mở đường lối mà thôi, chớ không phải là vai tuồng chánh. Chánh vai là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến ngày giờ định họ sẽ đến, biết đâu họ không có mặt trong mấy em, Qua không biết em nào, song Qua biết rằng đă có, v́ trước đă có, th́ sau cũng phải có, Qua đây không biết mà mấy em cũng không biết, chỉ tới thời buổi Chí Tôn phân định th́ chư vị đó sẽ hiện ra, chúng ta không thấu đáo được Thánh ư của Đức Chí Tôn, cũng không rơ nguyên căn của ai được, nhưng biết rằng, bổn phận phải đào tạo măi cho thành Thánh Thể của Đức Chí Tôn, tức là tạo ông Trời tại thế nầy cho ra tướng, nếu không có ông Trời tại thế gian nầy chúng ta sẽ khổ năo, thế gian sẽ bị tiêu diệt, v́ con đường tấn hóa về vật h́nh sẽ xô đẩy nhơn loại đi đến đâu chưa biết, mặt địa cầu nầy nhơn loại sẽ mất bảy hay tám phần mười, nếu Đạo không thành Chơn giáo.

Qua vừa thuyết minh cho mấy em biết trách vụ thiêng liêng trọng hệ hơn hết chẳng phải Qua mà thôi, cả mấy em cũng bị lời hăm he của Đức Chí Tôn, luôn cả đoàn hậu tấn của chúng ta nữa, đời đời không cùng, đàn Anh của mấy Qua, đến mấy Qua đây rồi đến mấy em, nếu đứa nào trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn thất phận th́ Ổng sẽ đến, mà hễ Ổng đến kẻ nào đương cầm quyền không đủ năng lực, mà buộc Ổng phải đến đó, kẻ ấy bị hành phạt, từ xưa đến nay không một đấng chơn hồn nào không ghê sợ.

Vậy chúng ta phải biết điều nên lẽ hư, làm thế nào cho Thánh Thể Đức Chí Tôn đặng gần con cái của Ngài, con đường đó mấy Anh của Qua đă đi, Qua đương đi và mấy em sẽ đi, ngày giờ nào mấy em t́m phương thế bảo trọng cầm vững vận mạng của Đạo tức là làm thỏa măn sở vọng của Chí Tôn đó vậy; điều đó mấy em phải tự lập ḿnh mỗi ngày, tự hỏi ḿnh, đảm đương nhiệm vụ đặng chăng, và măi cố gắng trau ḿnh cho nên phận, Qua tưởng muốn th́ phải được, rán hết sức ḿnh ắt làm đặng, v́ ta quyết đoán rằng có Chí Tôn giúp ta thành tựu.

Phương ngôn Pháp có câu "Aide-toi le ciel t'aidera" và Tiên Nho chúng ta nói "Tận nhơn lực tri thiên mạng" điều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng chúng ta rán cố gắng hết sức ḿnh th́ Chí Tôn mới ban cho cái huyền linh của Ngài, nếu không rán không thế ǵ hưởng được, mấy em nhận biết điều ấy, chúng ta do Chí Tôn kêu gọi đặng gầy dựng, ta phải cố gắng, v́ lẽ không thăng tức ta phải đọa. Mấy em nhớ, Đạo của mấy em chúng Qua đă tạo dựng cho mấy em đặng ngày kia mấy em tiếp theo Chơn Truyền Luật Pháp thay thế cho mấy Qua đặng truyền nghiệp cho hậu tấn.

Pháp nói "Chaque soldat a un bâton de maréchal dans son sacoche", nghĩa là: Mỗi tên lính đều có cây giản của ông Thống Chế trong bị của họ, Qua nói rằng: Mỗi vị Tín đồ đều có cái măo của Giáo Tông và Hộ Pháp đội trước trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết rồi là diệt tiêu nền Đạo.

Ngày kia không có ǵ vui hứng cho Qua hơn, khi thấy xuất hiện trong mấy em, khi Qua đă già vô tịnh thất an dưỡng tinh thần, mà thấy đặng mấy em ở dưới bước lên ngồi địa vị cao trọng của Đạo, nếu Qua được hưởng hạnh phúc thấy như vậy th́ vui sướng của Qua vô cùng tận.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 12-07-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 16-08-1948).


 

44- CHA MẸ PHẢI NÊU GƯƠNG TỐT CHO CON NOI THEO.

 

Tại Trí Giác Cung, ngày 17 tháng 7 Mậu Tư (1948)

 

Sắp nhỏ là tương lai đất nước chúng nó tốt xấu nên hư đều do nơi mấy bà mẹ đào tạo. Bài giảng hồi hôm qua đă nói rơ rằng: Đảm nhiệm sự giáo hóa tương lai tinh thần tâm lư là phần mấy em, lớn nhỏ cũng vậy, c̣n sắp con gái phải chăm nom giữ nề nếp. Qua muốn đứa nào cũng có đôi bạn chồng vợ tử tế rồi sanh con cho nhiều, phải biết dạy dỗ đặng tạo đời nên hay hư tương lai của ṇi giống chủng tộc là "do mấy bà mẹ".

Trẻ con sơ sanh bắt chước cha mẹ nhiều hơn hết, gia đ́nh nào mà không tôn trọng nhau, gây gổ bất ḥa khi rẻ nhau là gương xấu cho con đó, ở đây chúng ta chịu khổ th́ thái b́nh thầy tṛ c̣n chung sống cùng nhau hợp quần với nhau, sự khổ nào cũng chia xẻ ra thành bớt đi, c̣n ngoài đời họ sống hiu quạnh cô độc họ c̣n khổ nhiều nữa, xem như giống vật đừng nói chi hơn cái bọn kiến nhọt kết bè lại, con vật khác vô đó c̣n phải chạy thay, huống hồ chi phải giống người, nếu biết kết bè lại mà sống, anh ngă em đỡ, em té anh nâng, thân cô độc giữa đời kia nó c̣n thê thảm lắm lắm.

Mấy em than nghèo, mấy em chưa ăn củ súng, củ nầng mới ăn khoai thôi, các em ở đây nhờ quân đội bảo vệ sống yên ổn rán làm đặng nuôi nhau cần nhứt là khéo sắp đặt.

Mấy em ở đây yên phận đó là hạnh phúc nhiều rồi, c̣n nơi khác trải hai năm qua họ sống trong sợ sệt kinh khủng nhiều nữa.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 17-07-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 21-08-1948).


 

45- LỄ KHÁNH THÀNH ĐỀN THỜ PHẬT MẪU TẠI TRƯỜNG QUI THIỆN.

 

Ngày 16 và 17 tháng 7 năm Mậu Tư (1948)

 

Đức Hộ Pháp vào Đền Thờ làm lễ Phật Mẫu Linh Vị Chư Thánh Bạch Vân và Cửu Vị Nữ Phật xong lên lầu triều bái Đức Chí Tôn, xem lầu chuông và lầu trống. Đức Ngài trở ra, cả đoàn rước đến Hộ Pháp Tịnh Đường nghỉ ngơi, trước mặt Bàn Cai Quản Trường Qui Thiện và Chư Vị cầm quyền Hội Thánh Phước Thiện.

Đức Ngài nói: Cơ quan nầy thuộc về Phước Thiện, nhưng đào tạo ra đây riêng biệt cho những người Phạm Môn ngày trước. Bởi muốn giữ cho trọn vẹn đường tu trong lúc loạn động mà không căn bản, cơ Thảo Đường lập không xong, nên khiến cho Trứ về đây đặng tiếp tục lập cho thành.

Nguyên gốc của nó tại Phú Mỹ hồi lập Trường Qui Thiện tâm thần của Đạo bị Anh Đốc Phủ Ca làm cho náo động loạn thần không biết được con đường phải đi, nhứt là tội nghiệp cho Nữ Phái cần độ rỗi họ trở lại, cho nên Trường Qui Thiện, cốt yếu qui tựu cả Nữ Phái lại đặng ǵn giữ nguyên bổn chơn truyền của ḿnh.

Rồi cùng nhau vô Thảo Đường lập căn cứ nữa mà không xong, v́ Hội Thánh Phước Thiện rút về Ṭa Thánh kế Bần Đạo bị đồ lưu, đến khi trở về đây qui tựu trở lại cũng chưa được, Trường Qui Thiện ngày nay tồn tại là chịu ơn của Hội Thánh và Quân Đội rất nhiều.

Ở nhà trong thời kỳ Nhật Bổn, Trứ đă có làm rối không tùng ai hết, kế nhà đương quyền Quan Sứ Pháp viết giấy hỏi vậy Qui Thiện có phải của Đạo hay không, mà chứa chấp Việt Minh và họ nhứt định đốt: Sự thật cũng có chứa bọn ấy mà vụ nầy phát giác là do nhơn viên dọ thám biết rơ mà điềm chỉ, chừng Bần Đạo gởi thơ trả lời Trường Qui Thiện của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và dưới quyền chỉ huy của Bần Đạo, họ mới buông tha cho khỏi tàn phá, tới sau nữa, Bần Đạo biểu Đại Tá Phương chiết ra một Bộ Đội ǵn giữ.

Bần Đạo nói nhờ Hội Thánh nhờ Quân Đội là vậy, v́ trước khi Bần Đạo về, nhà binh Pháp cũng có hỏi Hội Thánh nh́n nhận Trường nầy là của Đạo, nên mới c̣n đến ngày nay vậy. Thánh Thể Đức Chí Tôn duy có một không hai, nếu chia rẽ là tức nhiên Tả Đạo Bàn Môn, mà Tả Đạo do trước mắt xem thấy, biết bao nhiêu họ chia rẽ ra, hỏi ngày nay làm nên tṛ ǵ đâu? Họ chia rẽ họ sẽ chết, không chết cũng tiêu hủy.

Hội Thánh duy có một, dầu biến ra trăm h́nh, ngàn trạng cũng huờn lại chỉ có một chủ quyền là Thánh Thể Đức Chí Tôn đó thôi, hễ tâm ư muốn tạo ra đây đặng phân chia sẽ tiêu diệt nghe không, ngọn lửa hai lần muốn tiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh thần của Trứ đây, không phải Qua nói: Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ư nghĩ em dự định thực hành.(*1)

Trứ, Qua hiểu em hơn hết, thầy em hiểu em mà, không lẽ Phối Thánh Màng cáo gian cho em, nó nói hết công chuyện với Qua, ở nhà em đă làm ǵ, và c̣n muốn làm ǵ nữa, tôi dặn một lần nữa v́ Đạo của Chí Tôn có một, ai muốn phân chia lực lượng của Ngài sẽ tiêu diệt mà thôi, chẳng những tiêu diệt c̣n phải xuống Phong Đô đền tội nữa. Đạo biến ra trăm h́nh ngàn tướng vẫn dưới một chủ quyền của Chí Tôn.

Vậy Trường Qui Thiện đặt dưới quyền Hội Thánh Phước Thiện, Trứ từ đây lănh trách nhậm chức Đốc Trường, không gọi là Chủ Trường, trường nầy Bàn Cai Quản làm đầu, Bàn Cai Quản là Chủ Trường, tất cả tùng dưới quyền Hội Thánh Phước Thiện chưa hề rời Hội Thánh Cửu Trùng Đài vậy.

Thật ra quyền Hội Thánh Phước Thiện về Hiệp Thiên Đài Pháp Chánh ǵn giữ chơn truyền, Phước Thiện lo giáo hóa nhơn sanh, c̣n Cửu Trùng Đài có Hành Chánh giữ tài sản của Đạo. Vậy Phước Thiện, Trường Qui Thiện nầy duy để lo giáo hóa chúng sanh làm ra của mà thôi, chẳng đặng thâu của cải một ai hết, làm ra bấy nhiêu dùng bấy nhiêu, kỳ dư có ai thật hảo tâm hỷ cúng mới thâu vào sở của Trường, rồi phải phúc sự cho Hội Thánh Phước Thiện hay biết liền. Từ đây về sau sở phí huê lợi ǵ của Trường Qui Thiện cũng phải chạy tờ phúc cho Hội Thánh biết rơ, sổ bộ của trường tuy riêng biệt, nhưng phải do Hội Thánh cầm.

Tôi lập lại cấm đi tới xin thiên hạ, làm được th́ làm, không th́ thôi nghe chưa, ngày kia Qua về nhà Tịnh rồi, Qua cũng lập ra cơ quan Tịnh Thất cho Nam, Nữ mà lập rồi cũng để dưới quyền Hội Thánh. Mấy em thấy từ thử thầy mấy em làm nô lệ cho Đạo, tạo ra bao nhiêu của cải, mà vẫn cúi đầu trước Hội Thánh, bởi quyền Hội Thánh là quyền thiêng liêng của Chí Tôn để tại mặt thế, nếu phân chia th́ bị tiêu diệt, mà c̣n bị Phong Đô ḍm ngó nữa.

Lập lại lần nữa cả thảy phải nhớ đa nghe, Trứ lần nầy là lần chót. Qua nói với em, em không nghe th́ chịu lấy trước mặt Bàn Cai Quản, trước mặt Hội Thánh Phước Thiện làm chứng. Từ đây kêu là Đốc Trường, không phải là Chủ Trường nữa, tức là Đốc Học Trường của mấy em đây, chúng ta làm đổ mồ hôi nước mắt mới tồn tại đặng đây.

Em trung thành với Qua, em thương Qua thế nào Qua biết lắm, nhưng đầu óc em dị hợm lắm. Qua đây c̣n phục Hội Thánh mà em chống th́ tiêu hủy đa. Trứ nói: Bạch Thầy khi Thầy về con có làm tờ thú tội với Thầy rằng: Con không tùng Hội Thánh Saigon v́ ḷng con nghi ngờ đó thôi.

Tại sao em nghi ngờ sự chơn giả, Qua biết rằng trong mười phần giả đó cũng có hai phần thiệt, dầu trong đám đó đều là kẻ lạ hết mà có một vị Giáo Hữu hay là Giáo Sư trong đó, Qua không dám nói là giả nữa. Thảng như họ làm không nên th́ vị Giáo Sư hay là Giáo Hữu đó sẽ chịu tội trước Ṭa Tam Giáo Bát Quái Đài.

Em nên nhớ đây không ai đầu cáo em đâu, Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện cũng vậy, người đầu cáo em là Phối Thánh Màng.

Chúng em biết tại sao lập cơ quan ở Saigon không? Là v́ Qua bị Pháp bắt, nên họ đ̣i Thầy họ về, cái khối oán dẫy đầy kêu gọi toàn thể đứng dậy đó, mà làm chứng rằng họ làm có kết quả đó vậy. Trứ bạch Thầy: V́ Thầy ở bển có một ḿnh, c̣n bên nây làm sợ có hại cho Thầy chăng? Nên con không tán thành.

Nếu vậy em không biết quyền của Chí Tôn ra thế nào sao? Qua biết chúng bắt mà ngồi đây cho nó bắt, nếu quả có sự ǵ hại đừng tu.

Bàn Cai Quản ra mời Hội Thánh Cửu Trùng Đài vào đây. (Hội Thánh Cửu Trùng Đài vào). Thưa cùng chư vị Chức Sắc Cửu Trùng Đài, Trường Qui Thiện của Hiệp Thiên Đài ngày nay đă hoàn thành, đặng có nơi phụ nữ tu chơn, và đặt dưới quyền Hội Thánh Phước Thiện, những ǵ nơi Trường Qui Thiện, Hội Thánh đă có nhiều công giúp đỡ bảo bọc nên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài tŕnh cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài được biết về chánh quy của Đạo, cơ quan nầy không phải tư riêng phải tùng y luật lệ của Hội Thánh Cửu Trùng, Hiệp Thiên. Thảng ngày kia nó đi ngoài chơn truyền Pháp Chánh th́ hai Đài có quyền giải tán.

Ngày nay tôi tŕnh nó ra mặt công khai của Đạo thuộc Hiệp Thiên Đài Chưởng Quản, thảng ngày kia có phạm pháp luật hoặc chẳng noi theo chơn truyền của Đại Đạo tự lập tôn chỉ khác, chúng ta có quyền giải tán.

Đức Hộ Pháp dứt lời th́ nhạc trổi và Đồng nhi ca mừng ơn Đức Ngài, trong lúc ấy Bàn Cai Quản và Đạo sở vào lạy mừng. Ngài nói: Các em biết các em lạy Qua, Qua nguyện làm sao không? Qua nguyện với Đức Chí Tôn rằng: Các em con, chúng nó lạy đó là lạy Thầy chớ không phải lạy con, Thầy ban ơn cho chúng nó.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 16 & 17-01-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 20 & 21-02-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 7:
Hội Thánh duy có một, ... ... ... ngọn lửa hai lần muốn tiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh thần của Trứ đây, không phải Qua nói: Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ư nghĩ em dự định thực hành.
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn:
Hội Thánh duy có một, ... ... ... ngọn lửa hai lần muốn tiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh thần của Trứ đây, không phải. Qua nói: Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ư nghĩ em dự định thực hành.
Hay là:
Hội Thánh duy có một, ... ... ... ngọn lửa hai lần muốn tiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh thần của Trứ đây, không phải Qua nói, Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ư nghĩ em dự định thực hành.


 

46- LỄ HỘI YẾN DIÊU TR̀.

 

Tại Cửu Long Đài, hồi 4 giờ ngày rằm tháng 8 Mậu Tư (1948)

 

Cũng như mọi năm, chúng ta làm lễ Đức Phật Mẫu Diêu Tŕ tưởng khi cả thảy trong Đạo ngó thấy Bần Đạo mặc Tiểu Phục đứng trước Cửu Long Đài đều lấy làm lạ.

Thưa cùng cả thảy các bạn đồng sanh, trước mặt Phật Mẫu, Bần Đạo thường nói: Người chỉ biết con cái của Người mà thôi, không phân đẳng cấp chẳng luận sang hèn.

Thưa cùng các bạn nam nữ, chúng ta ở giữa trường đời nầy, chịu thống khổ tâm hồn mọi nỗi, nhà Phật gọi cảnh trần nầy là khổ hải. Chúng ta ngó thấy hiện tượng trước mắt nhiều lẽ bất công, kiếp sống chúng ta sanh ra trong xă hội nhơn quần nầy, ta thấy cái tương quan nó làm cho chúng ta nhiều nỗi khổ năo, buồn thảm hơn là ngày vui của hạnh phúc. Bần Đạo cũng như các bạn thấy lẽ bất công, tinh thần ta chịu thống khổ nhau như nào phân biệt sang hèn đẳng cấp. Chúng ta đă thấy trường đời tranh đấu nhau, sang hiếp hèn, giàu hiếp nghèo, mạnh hiếp yếu, trí hiếp ngu, đă quên hết t́nh bạn đồng sanh, tức nhiên chúng ta đứng giữa trần hoàn nầy đồng chịu thảm khổ như nhau. Ta thường hỏi: Chúng ta có phương ǵ t́m mưu chước đặng an ủi tâm hồn ta chăng? Dầu cho mảnh h́nh thể cũng thế, mà tâm hồn cũng thế, chúng ta quá chịu thống khổ rồi. Ta t́m phương an ủi tâm hồn, ta không thể t́m được nơi bạn đồng sanh, chúng ta phải t́m một nơi an ủi thiêng liêng cho tâm hồn chúng ta chăng? Chỉ khác hơn là chúng ta về trong ḷng của bà mẹ sinh sản thi hài và chơn thần chúng ta.

Các bạn có biết Phật Mẫu là ai? Ngài dùng bảy ngươn khí tạo chơn thần ta, tức nhiên tạo phách ta. Nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ thật khí phách ấy làm chơn thần, tức là nhị xác thân chúng ta, khi chúng ta bỏ xác trần, xác Thiêng Liêng ấy vẫn c̣n tồn tại. H́nh hài thay đổi đặng, văn hóa của ta mỗi kiếp mỗi tăng thêm, nhà Phật có nói: Nó có thể tấn tới hoặc trở lại hay đứng chừng mà thôi. Mỗi linh hồn đều mơ ước tấn tới măi, tới đạt địa vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu ngày nào ta tận thiện, tận mỹ và linh hồn ta có thể đạt vị đặng th́ Phật Mẫu đủ quyền năng binh vực con cái của Người nơi cơi Hư Linh vậy.

Ấy vậy chúng ta có thể gởi tâm hồn dầu ở mặt thế, khi chúng ta quá văng trở về nơi ấy, chúng ta chỉ sống đặng làm phận sự làm người, mà làm người chẳng phải dễ nữa. Nhưng chúng ta biết quyền năng vô h́nh định hồn cao cả, có thể cầm mực thước công b́nh không hề sai chạy được là Đại Từ Phụ.

Bây giờ chúng ta thống khổ tâm hồn, ta t́m nơi đâu an ủi? Không có nơi nào khác hơn là chúng ta về cùng bà Mẹ Thiêng Liêng chúng ta.

Thưa cùng các bạn đồng sanh, sang hèn, giàu có thế nào cũng mặc. Người chỉ biết con cái của Người mà thôi. Dầu cho vạn vật, hễ đồng sanh với một Bà Mẹ Thiêng Liêng vẫn được coi đồng một mực. Bởi v́ t́nh thương của Bà Mẹ chẳng có thế ǵ phân biệt thương ghét, trọng khinh. Ấy vậy Đức Phật Mẫu là một Đấng đem công b́nh tâm lư an ủi con cái của Người. Người nói: Những điều bất công trước mắt con, vẫn là kiếp sanh ngắn ngủi mà thôi. Mà chỉ trước mắt Mẹ mới đủ quyền đem sự công chánh khi họ bị áp bức. Duy có Mẹ giữ tâm công chánh v́ ḷng Mẹ thương yêu mà thôi.

Ấy vậy, một Đấng gieo mảnh tâm lư nhơn sanh lấy luật thương yêu làm căn bản. Nếu thảng có bạn đồng sanh biết thương yêu con cái của Người vậy, th́ những điều bất công trước mắt chúng ta, và chúng ta biết ḷng thương yêu vô tận đối với các chủng tộc, các sanh mạng của con cái Người ấy là chúng ta trọn đạo. Sức hợp tinh thần tự an ủi lấy để được an vui, chịu cho đoạt khổ, rồi chúng ta chia khổ với nhơn loại, cầm quyền thế tài t́nh để rải truyền thêm ra nữa, cho cả thảy chủng tộc biết thương yêu nhau như một ṇi giống. Đem t́nh thương yêu ấy gieo truyền khắp dân tộc trên mặt địa cầu nầy, tôi tưởng sự bất công chúng ta ngó thấy giữa xă hội nhơn quần nầy tự nhiên sẽ tiêu diệt, ấy là tinh thần diệt trừ hung ác bạo tàn của đời đó vậy.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 15-08-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 17-09-1948).


 

47- LỄ TRUNG THU.

 

Tại Đền Thánh, đêm rằm tháng 8 năm Mậu Tư (1948)

 

Kỳ nầy chúng ta đ́nh bộ trên con đường dục tấn của chúng ta, là con đường Thiêng Liêng Hằng Sống tại Cửu Thiên Khai Hóa, kỳ tới Bần Đạo giảng tiếp.

Nhân dịp ngày nay nhằm Lễ Trung Thu tức là Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung là một cuộc lễ trọng yếu trong nền Tôn Giáo của Đức Chí Tôn, Bần Đạo lấy triết lư v́ cớ nào ngày nay Đức Phật Mẫu đến cùng chúng ta. Trong triết lư ấy do nguyên nhân của nó là phép an ninh trật tự đối với cơ Tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ.

Phải chăng chúng ta thường muốn định khảo cứu một triết lư chi thật cao siêu, chúng ta có một phương pháp hay ho hơn hết là chúng ta t́m từ cái nhỏ thấu đáo đến cái lớn.

Trong phép an ninh trật tự đối với Tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ không ngoài khuôn khổ gia đ́nh, chúng ta quan sát h́nh tướng phép an ninh trật tự đối với cơ Tạo đoan trong gia đ́nh thế nào th́ cơ Tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ cũng ở trong khuôn khổ ấy mà thôi.

Chúng ta ngày nay thấy ǵ? Chúng ta ngó thấy cha mẹ chúng ta trước hết sanh ta ra, chẳng phải một ḿnh chúng ta, thấy xung quanh hoặc anh em đồng sanh hay là anh em trong thân tộc của chúng ta. Trong buổi sơ sanh, chúng ta c̣n niên thiếu, c̣n ngu khờ, chúng ta chưa biết an ninh trật tự. Chúng ta quan sát dầu anh em một nhà, đứa út c̣n bú chưa biết tôn sùng anh cả thế nào, nó chỉ biết mầy tao, mi tớ với nhau mà thôi. Kỳ dư chúng ta biết chút đỉnh khôn ngoan, chúng ta biết lễ phép. Cha mẹ mới khởi sự dạy: Mầy là anh thứ mấy, mầy là chị thứ mấy, mầy thứ mấy trong gia đ́nh. Sắp đặt có trật tự, thượng hạ phân minh. Nói cho cùng nữa nếu an ninh trật tự không có trong gia đ́nh thượng hạ bất phân, tôi tưởng trong gia pháp loạn hàng thất thứ th́ không thể nào bảo trọng nhau được. Nhờ khuôn viên của Tông Đường để lại phải có trật tự an ninh ấy sản xuất khi chúng ta đă đạt khôn ngoan, bằng chẳng vậy th́ một gia đ́nh vĩ đại hay một quốc gia nào không định quyết an ninh th́ có tạo nghiệp bao nhiêu cũng nghiêng đổ mà thôi.

V́ cớ chúng ta ngó thấy nhơn loại đạt đến địa vị nầy là tinh thần đă đi đến một địa điểm quá cao rồi, họ thường tưởng có trật tự an ninh, nhưng đương nhiên bây giờ toàn thể các sắc dân trong hoàn cầu không c̣n quyền năng nào nắm giữ tư tưởng họ được nữa. Họ tưởng họ chắc làm vậy được không? Họ chẳng qua khuôn viên luật pháp bao giờ. Dầu cho họ có muốn nghiêng đổ thế nào th́ các quốc gia có quyền vi chủ định đoạt chẳng hề khi nào hủy diệt nó đặng. Họ đem các lư thuyết tra vào là đả đảo giai cấp đủ thứ hết, tranh nhau đồng sống. Bao nhiêu tấn tuồng ấy vẫn chưa ra khỏi khuôn luật an ninh trật tự.

Hỏi cả một nước cường liệt đứng ra đề xướng tiêu hủy giai cấp, nước ấy có an ninh trật tự chăng? Không mà, không có an ninh trật tự th́ tức nhiên không có chánh quyền nắm trong tay nghĩa là không có nền chánh trị.

Chúng ta thấy họ không thế ǵ đánh đổ được, bởi họ đánh đổ Chánh Phủ bao nhiêu th́ trong nước lại càng loạn lạc và tiêu diệt với nhau mà thôi. Chúng ta ngó thấy cái nhỏ, chúng ta tưởng tượng cái lớn là Càn Khôn Vũ Trụ.Về mặt tinh thần cũng vậy, khuôn luật an ninh trật tự vẫn phải được tôn trọng. Nếu khuôn luật ấy bị đả đảo, tiêu hủy th́ địa cầu nầy đụng với địa cầu kia, mặt trời nầy đụng với mặt trời kia, th́ cả Càn Khôn Vũ Trụ nầy hư hoại hết.

H́nh thể trên mặt thế gian, nếu không có trật tự an ninh, nếu có loài khỉ nào tương đương với loài người th́ dám chắc loài người chưa thắng được. Đối với một sắc dân nào c̣n lạc hậu th́ không khi nào định quyền năng được, để tự trong tâm lư họ biến ra mà thôi, họ phấn đấu tương tàn tiêu diệt với nhau mà chớ. Đó là về h́nh thể.

Chúng ta thấy Đức Chí Tôn đến, trước hết Ngài mở ra cơ bút dạy bằng Thánh Giáo, khi Ngài chưa đến th́ đă có Phật Mẫu đến với chúng ta lập thành khuôn khổ một mực, dầu cho cơ quan nào "dĩ tiểu vi đại" cũng vậy. Bà mẹ phàm chúng ta sản xuất nuôi dưỡng ta thế nào th́ Phật Mẫu cũng thế ấy, bà mẹ chẳng bao giờ muốn đứa con kia xưng ḿnh có quyền định cho mẹ và người mẹ cũng không muốn một ông cha nào mà buộc con ḿnh phải chiều ḷn theo như ư ổng buộc phải có. Nhiều khi chúng ta thấy một đứa con trong gia đ́nh kia, nếu người anh cả vinh quang phú quí, quyền tước cao sang về tới nhà lại hiếp đáp đàn em buộc phải tôn sùng, th́ bà mẹ chẳng hề vui ḷng bao giờ. Bà cũng chỉ biết đó là một đứa con của bà mà thôi, ngoài ra bà không biết ǵ khác hơn nữa.

Buộc trong gia đ́nh có đẳng cấp, có lớn, có nhỏ, mà thôi, chớ bà chẳng hề khi nào chịu cho ai áp bức con cái.

Trong cửa Đạo Cao Đài có hai Đền Thờ: Một Đền Thờ, ta ngó thấy trật tự hàng ngũ, bởi từ nguyên căn tâm hồn của chơn linh chúng ta đều có trong hàng phẩm Cửu Thiên Khai Hóa cả. Quí phái như thế! C̣n một Đền Thờ nữa, thờ Phật Mẫu tức là Mẹ của chúng ta, th́ cái quí phái của chúng ta không c̣n giá trị ǵ nữa. Đến Phật Mẫu không muốn cả Chức Sắc Thiên Phong đi đến Đền Thờ của Người và Người nhứt định không chịu điều ấy, vậy phẩm tước và giai cấp đối với Phật Mẫu không có giá trị, v́ Phật Mẫu không muốn đứa nào áp bức đứa nào cả, hành tàng như vậy bị tiêu diệt.

Đó khuôn khổ b́nh đẳng của Cộng Sản, thiên hạ muốn bắt chước Cộng Sản mà Cộng Sản nào được như nơi cửa Đạo Cao Đài. Trong cửa Đạo Cao Đài khác hơn là các cơ quan tương đương với nhau mà ta thấy, dù ai muốn t́m con đường đi nào, trong cửa Đạo Cao Đài nầy đều có, chúng ta duy biết tuyển chọn quyết định con đường phải đi măi thôi.

Con đường sanh sống của chúng ta không bờ bến, không ǵ ngăn cản về tinh thần hoặc tự do của nó được. Trên cửa thiêng liêng Càn Khôn Thế Giới thế nào th́ con đường tinh thần của con người cũng thế ấy, không thế nào đi cho cùng tận.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 15-08-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 17-09-1948).


 

48- ĐỨC HỘ PHÁP ĐI SÀIG̉N VỀ NỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM.

 

Tại Đền Thánh, đêm mồng 9 tháng 7 năm Mậu Tư (1948)

 

Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái của Đức Chí Tôn.

Trong mấy ngày Bần Đạo ra đi, toàn thể ở nhà đă để tâm cầu nguyện cùng Đức Đại Từ Phụ cho Bần Đạo đi kỳ nầy đặng kết quả, mà kỳ nầy có điều trọng yếu hơn hết là ta đă đạt vọng đặng, vị Đại diện nước Pháp là Quan Thượng Sứ Bollaert đứng giữa công chúng tuyên bố rằng: Nước Việt Nam độc lập.

Ngày giờ nầy Chánh Phủ Việt Nam đang hiệp trí lo thương thuyết đặng thiệt hiện vấn đề độc lập của nước Việt Nam. Chúng ta hăy suy nghĩ và xét lại coi hai mươi mấy năm trước, Chí Tôn đến truyền giáo mở nền Chơn Đạo của Ngài có nghĩa lư ǵ? Ngày nay đạt vọng này có nghĩa lư ǵ? Mà cả ṇi giống chúng ta phải chịu cảnh tương tàn tương sát lẫn nhau mới đạt vọng đặng? Đă theo chơn Chí Tôn 23 năm có lẽ chúng ta tinh thần sáng suốt, minh mẫn hơn thiên hạ t́m hiểu đặng chớ? Có thể họ đă đưa trọn nền độc lập nơi tay ṇi giống chúng ta, mà chúng ta phải để mắt coi cả ṇi giống chúng ta c̣n nồi da xáo thịt c̣n đổ máu nữa không? Thảng như c̣n duy tŕ tấn tuồng ấy nữa là tại oan gia nghiệt chướng của ṇi giống Việt Nam nầy vậy.

Hại thay! Cái nền độc lập mà ngày nay ta đạt vọng đó, nó lại kết liễu thành tựu trong tay của Đạo mới là kỳ cho chớ! Toàn thể Quốc dân Việt Nam và nước Pháp đă tự hiểu rằng: Sự kết liễu thành tựu được chăng là chỉ do Đạo Cao Đài mà thôi. Nghĩ có một điều trong nhơn loại cái cảnh tranh quyền, tranh thế, các đảng phái tương tàn tương sát lẫn nhau, làm cho ṇi giống đổ máu, nên họ giao quyền sở hữu lại cho ḿnh để thí nghiệm coi ḿnh có đủ tài năng, lực lượng cương quyết cầm độc lập hiện tại được chăng cho biết.

Cả con cái Chí Tôn nên lấy tương lai này làm một vấn đề trọng yếu đặng học, nếu con cái Chí Tôn ai đạt đặng huệ tánh chút đỉnh, định tâm kiếm hiểu thấu lư coi tại sao có tương tàn, tương sát đổ máu rồi mới đạt vọng được như vậy. Có chi lạ, Bần Đạo xin giải rơ cho biết: Đạo mở từ năm 1926. Hồi đó Cộng Sản có nghĩa lư ǵ trong nước. Đức Chí Tôn cầm cơ đi khắp hết kêu gọi cả Quốc dân Việt Nam đi trong quyền lực của Ngài; nâng đỡ bảo trọng lấy quyền năng tinh thần của chủng tộc làm ngọn Huệ Kiếm đặng giải ách nô lệ cho Quốc dân Việt Nam. Mà Quốc dân Việt Nam đă trả lời với Ngài thế nào? Họ đối đăi rất lănh đạm chớ chi ṇi giống Việt Nam biết nghe lời của Ngài th́ không có tai nạn ngày nay.

Hại thay! Chủ hướng của ṇi giống Việt Nam trở lại xu hướng theo tinh thần tàn ác hơn là theo tinh thần đạo đức bảo sao không nảy sanh cảnh tương tàn đổ máu được.

Một đàng Cộng Sản, một đàng Cao Đài cũng trong một nước. Đáng lẽ nền độc lập của nước Việt Nam chúng ta đă đ̣i được hồi buổi đó rồi, mà phải ngưng hoăn đến ngày giờ nầy. Ṇi giống đă bị trị, oan gia nghiệt chướng làm mê mẩn tinh thần thành ra ngu dốt tàn sát nhau, đổ máu v́ nhau mà không tự biết! Bần Đạo nói thiệt, Đại Từ Phụ hồng oai mà cũng hồng từ, Ngài mở kỳ ân xá thứ ba nầy giao quyền Giáo Chủ cho Bần Đạo phổ độ chúng sanh mà nếu chúng sanh c̣n tàn hại nhau nữa th́ Bần Đạo sẽ nói đáng kiếp! Rồi bỏ mà thôi, nhưng giờ buổi nầy chúng ta đă tỉnh mộng, đâu c̣n mê muội nữa, bây giờ người ta đă thử thách ḿnh đáo để rồi, Bần Đạo để mắt mà coi cả tài t́nh đảm nhiệm lịch sử 4.000 năm mỹ măn, ngày hôm nay có thành tựu được không cho biết. Người ta bảo ḿnh làm sao được th́ làm đừng đổ thừa tại người ta cầm giữ. Nếu làm không thành tựu th́ hay hơn phải tự vận cả ṇi giống cho chết hết.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 09-07-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 13-08-1948).


 

49- NHƠN T̀NH THẾ SỰ ĐỐI VỚI NHƠN T̀NH ĐẠO ĐỨC.

 

Tại Đền Thánh, đêm 17 tháng 8 năm Mậu Tư (dl. 19-09-1948)

 

Hôm nay chúng ta đ́nh dục tấn trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, ngày mai Bần Đạo sẽ giảng tiếp. Đêm nay Bần Đạo giảng vấn đề trọng yếu nhất, cả toàn mấy em, mấy con Nam, Nữ hậu tấn của chúng Qua, mấy em biết định phận mấy em thế nào tạo tâm đức đặng ngày kia cầm giềng mối cho Đạo.

Bần Đạo đem nhơn t́nh thế sự để đối với nhơn t́nh đạo đức, hai điều mấy em sẽ thấy Qua để đó, trải qua trước mắt lấy trí thông minh của mấy em mà xét đoán nên hư đặng định quyết phận ḿnh. Vả chăng chúng ta ngó thấy nhơn t́nh thế thái của con đường đời đă trải qua, dầu đặng lịch lăm nhơn t́nh, chúng ta ngó thấy nhơn t́nh thế nào? Nhiều khi nhơn t́nh lănh đạm, mà dục tấn tinh thần chúng ta thêm lên, là cốt yếu về tâm tấn đó vậy. Nhiều khi tinh thần chúng ta ngó thấy không trọng hệ ǵ lắm, bất quá trong gia đ́nh không sao, t́nh bè bạn cũng thế, t́nh hương lân trong xă hội cũng thế, hễ phải th́ đối phải, c̣n quấy th́ đối quấy. Thường t́nh như thế mà kẻ vĩ nhân nào có tinh thần hoạt bát tự chủ ḿnh đặng, nhơn t́nh dù lănh đạm hay bạc bẽo cứ giữ mực thước đặng đối phó cùng đời. Tinh thần ấy mới ra người quân tử mới khác với thế thường. V́ thế thường, phải trả phải, quấy trả quấy. Có một điều ngộ nghĩnh hơn hết dầu chi chi cũng có phương pháp b́nh tâm cho họ, mỗi khi thi thố hành tàng chi vô đạo đức, vô nhơn nghĩa th́ họ tự tỉnh, tự thẹn lấy họ. Chúng ta ngó thấy rằng: Những kẻ tiểu nhơn dù t́m phương tạo vinh hiển thế nào, sự tiểu nhơn của kẻ ấy không thế ǵ chối căi đặng.

Hại thay! Tinh thần của nhơn t́nh thế thái, không ai t́m ṭi, không ai bươi móc đem chơn lư cho chúng ta ngó thấy, chẳng hề khi nào phương pháp tiểu nhân dầu dấu thiên hạ một ngày không thấy, hai ngày không thấy, dầu dấu thế gian thế nào cũng ḷi ra, không phương dấu đặng, che đặng. V́ thế xă hội quốc dân nào cũng thế, họ được bền vững đứng trong xă hội, cùng nhau mưu chước quỷ quyệt thế nào cũng chẳng làm quá ḷng của người, hễ làm quá ḷng của người th́ có phản động lực, nhờ vậy mà nhơn quần xă hội mới tồn tại được. Nhơn t́nh thế thái có điều mầu nhiệm như thế, bao giờ chúng ta cũng sợ miệng lưỡi của người, phải giữ tánh đức theo thế thường của nhơn t́nh đạo đức.

Bây giờ đến nhơn t́nh đạo đức, chúng ta đừng tranh theo mặt đời. Buổi trước, khi Đạo Cao Đài chưa khai mở chúng ta thấy cả tính đức nhơn t́nh buổi đó thế nào? Bần Đạo không phải đứng trên ṭa giảng nầy để công kích, không lẽ mấy em không thấy, mấy em thấy phần nhiều hạng niên thiếu họ vô chùa miễu, đốt giấy vàng bạc đặng họ mua chuộc tài lợi, họ đến lo lót như lo lót một Ông Quan đời kia vậy. Các Đấng đâu có dùng mà họ t́m phương hối lộ. Nếu thảng có tính chất nhơn t́nh đạo đức, bất quá họ chung hiệp nào là tổ chức Tôn Giáo, nào là định lập trường đặng nương theo bóng Tôn Giáo. Nhơn t́nh buổi trước như vậy.

Bây giờ Bần Đạo luận từ ngày Đức Chí Tôn đến mở Đạo Cao Đài, ngày nay Bần Đạo nhờ nương theo bóng từ bi của Ngài đi theo bén gót Ngài từ 23 năm nay. Bần Đạo chung chia đau thảm cùng con cái của Ngài, thảm khổ cũng có, mà vui hứng cũng có, buồn vui lẫn lộn với nhau, nhứt là đàn anh của chúng ta buổi nọ, niên cao kỷ trưởng, khi nghe tiếng gọi Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, họ quyết đem mảnh thân phàm của họ dâng hiến làm tế vật của Ngài, dầu làm tay chơn cho Ngài, v́ cớ mà bản ḥa ước của họ đối với cả chơn hồn nguyên nhân là họ lănh sứ mạng thiêng liêng vậy. Bần Đạo chẳng cần đứng trên ṭa giảng khai công nghiệp các bậc tiền bối của chúng ta, họ không cần, và e nói ra mấy em buồn nhiều, toàn thể Đạo cũng vậy. Trong trường thảm khổ, cũng có kẻ trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn, trọn trung cùng Hội Thánh. Nhờ vậy mà Ngài tạo Thánh Thể của Ngài. Tội nghiệp thay trong một trường đồng hèn thân danh, đồng hèn xác thịt, mỗi mỗi đều thất thế bởi ṇi giống c̣n nô lệ, nước nhà chưa biết tự do, tự chủ là ǵ, làm cho họ hổ thẹn. Đó là tâm đức buổi ban sơ v́ Đạo v́ Đời, th́ mảnh thân tạo nên đại nghiệp đầu tiên cho nước Việt Nam, tạo cho ṇi giống Việt Nam trước hết, nhưng bởi họ rủi sanh ra thi hài người Việt Nam, máu mủ Việt Nam. C̣n có hạng nữa, tưởng ḿnh có phương vi chủ đặng, cũng làm cũng tạo vậy, nhưng tinh thần c̣n chật hẹp, không nương quyền năng vô tận, tự ḿnh lấy quyền năng sở hữu của ḿnh mà làm. Bần Đạo thấy cần thuyết minh điều đó. Họ tự tạo phương pháp như một cái kho để bảo trọng gia đ́nh họ, họ tạo quyền năng cho họ mà thôi. Buổi nọ trong trường hợp nào cũng có người chia rẽ, tham tàn đủ lẽ, tranh phương đủ điều đến lúc đó Bần Đạo thấy hết. Không ai lỗi, không ai phải, không ai nên, không ai hư mà qua khỏi mắt Bần Đạo được. Đời sống của họ c̣n hiện tượng nơi cơi Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Chí Tôn, dầu họ rủi phận không đặng về ngồi vào ḷng Đức Chí Tôn, th́ họ cũng lưu lại cho gia tộc con cái của họ. Cái đại nghiệp đó họ tạo đám con cái ấy, Bần Đạo chứng chắc nó ngậm được giọt sữa của tổ tiên nó. Biết đâu đại nghiệp hậu hữu sau nầy của Đạo không phải tự tay mấy đứa trẻ c̣n tồn tại đây thọ hưởng. Họ biết không phải làm cho họ hưởng. Bần Đạo nói họ để lại đại nghiệp cho Đạo, cho Hội Thánh nuôi hết con cháu họ, họ ham quyền, ham lợi rốt cuộc cũng nuôi mấy em nhỏ khôn lớn mà thôi. Thật sự mấy em nhỏ nếu nuôi bằng phương pháp tiểu nhơn chúng nó sẽ gớm ghiết điều nó không nói ra. Chớ những người trung hiếu cùng Đức Chí Tôn sẽ được chúng nó tôn nghinh trong vinh hiển lắm.

Chúng nó ôm được cái gia tài của Ông Cha nó để lại đó, ngày kia nó sẽ ngồi trên thiên hạ, nó sẽ vi chủ loài người. Trong hai lẽ đó, cả thảy suy gẫm muốn lựa chọn lẽ nào th́ lựa.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996:
Ngày âl. 17 tháng 8 năm Mậu Tư nhằm ngày (dl. 19-09-1948) nguyên bản chánh in là: 17 tháng 8 năm Mậu Tư (dl. 20-09-1948).


 

50- VIỆT NAM ĐỘC LẬP TRONG LIÊN HIỆP PHÁP.

 

Tại Đền Thánh, về việc đi Saigon, ngày 27-8-Mậu Tư (1948)

 

Chánh phủ mời Bần Đạo ngày mai xuống kinh thành Saigon nữa.

Khi năy Bần Đạo có nghe Thượng Sứ Pháp tuyên bố trên máy truyền thanh giữa quần chúng đông đảo, Ngài đọc diễn văn nói: "Nền độc lập Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp được tuyên bố cho toàn thể quốc dân Việt Nam, do nơi tay Ngài giao trả lại cho nước ta, đă trả rồi không ai lấy lại nữa". Nước Việt Nam từ đây được trọn quyền độc lập. Ngài tuyên bố quả quyết như vậy. Cả chánh quyền nội bộ của Ngài sẽ giao cho Việt Nam. Theo lời tiên tri của Đức Lư có câu: "Khải ca định vận tại thu phân". Quả vậy. Nên hay chăng do sức ḿnh mơ ước thể nào tạo cho ṇi giống, với tinh thần, nghị lực, đặng cầm vận mạng toàn cả nước vậy.

Toàn Đạo ở nhà cũng nên cầu nguyện xin Đức Từ Phụ điều ấy.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 27-08-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 29-09-1948).


 

51- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT MINH SAU KHI HỘI ĐÀM VỚI THƯỢNG SỨ PHÁP.

 

Tại Đền Thánh, đêm mồng 3 tháng 9 năm Mậu Tư (1948)

 

Có lẽ trong kỳ lễ Bần Đạo đến Sàig̣n, ở nhà cả thảy đợi tin và trông Bần Đạo về, đặng nghe về tương lai của nước nhà.

Bần Đạo để lời cám ơn toàn Đạo đă hết tâm cầu nguyện với Đại Từ Phụ. Nam, Nữ lưỡng phái hết mấy em, mấy con cũng vậy.

Cốt yếu Bần Đạo đến Sài thành kỳ nầy là do Quan Thượng Sứ mời Bần Đạo, v́ Ngài sắp về Pháp, Ngài từ vị của Ngài không c̣n làm Thượng Sứ nơi xứ nầy nữa. Thạnh t́nh của Ngài đối với Bần Đạo có chỗ cao kỳ nên mời Bần Đạo đến đó sở định, chúng ta nên biết có lạ chi, dầu cho một gia đ́nh kia cũng lấy nhỏ mà luận lớn. Như một ông Trưởng Tộc họ nầy nếu tự nhiên có liên lạc chi với họ khác, khi phải đối đầu quyền lợi chung cho Tông môn hai họ, không phải một ḿnh ông quyết định đặng. Bởi hai họ đương đầu với nhau, tưởng chẳng cần tả lại, hai ông Trưởng Tộc bị khảo dượt, phải có đủ tài sáng suốt, đủ chơn chánh minh mẫn quyết đoán cho chơn lư mới thỏa hiệp đôi họ đặng. Như thế mới khỏi sự trắc trở bên họ kia.

Bây giờ đây cũng vậy, ai cũng v́ quyền lợi tranh lấy cho đặng phần hơn. Chính Bần Đạo có thấy tấn tuồng ấy, biết nó khó khăn lắm. Có điều lạ chướng hơn hết là tới giờ phút nầy mà Nhơn sanh chưa chơn thật, điều thiệt họ không dám nói, lại đem ra nói dối, mê hoặc tinh thần quốc dân, làm cho cả thảy đều hoang mang.

May thay! Chúng ta vô cửa tịnh của Đức Chí Tôn được ngồi trên Đài Trí Giác, thâu đặng mảy may huệ tánh của ḿnh, ta thấy rơ ràng một trường gạt gẫm giả dối, trước mắt không có ǵ chơn thật. Bởi trường kháng chiến, đ̣i độc lập thống nhất, đ̣i cho lấy được, tới chừng chúng trả không ai dám lănh cả, họ làm mờ mịt, v́ không đủ tài đức chơn thành để đảm nhiệm trách vụ ḿnh. Đ̣i quyền sở hữu độc lập thống nhứt người ta biểu có nhơn tài ra nắm chánh quyền đi. Đừng nói chi tới địa vị tối cao, quyền hành tối trọng, hàng Tham Biện, Chủ Tịch ngày nay chưa t́m được người ngồi cho đủ mấy tỉnh là tại sao? Tại có bao nhiêu nhơn tài xúm nhau giết hết do chánh sách độc tài. Ngày nay tới lúc đảm nhiệm vai tuồng trọng hệ, cầm vận mạng nước nhà mà không có người dám nắm chánh quyền.

Chúng ta thấy chẳng khác nào một cuộc cúng tế, ông Chánh Bái mời các họ đến nhà thờ rồi mạnh ai nấy ngó, ngó đông, ngó tây, nấu cơm không biết, làm heo làm ḅ, bửa củi xách nước không ai biết, chỉ ngồi gây lộn với nhau. Tấn tuồng đó sẽ đến với chúng ta, như hiện nay muốn cứu văn t́nh thế mà trong ngoài không thuận, cả toàn thể không ai đủ tài quyết đoán đặng. Tới phút yếu trọng nầy, cũng do đầu óc trong nhà mà ra, mà chỉ biết cùng nhau gây lộn, đánh lộn thôi, hiển nhiên như vậy. Bần Đạo xuống đó để nghe hai tiếng chuông, để quan sát tấn tuồng sự thật thế nào. Lại nữa tâm tu duy có nền Chơn giáo Đức Chí Tôn cho Bần Đạo làm được việc mà từ thử đến giờ không ai làm. Họ nói mấy người lai Pháp là thực dân. Hỏi thử ai thực dân? Nói mấy người Tây Lai. Máu mủ họ phân nửa Pháp phân nửa Việt th́ cũng tội nghiệp cho họ. Nếu lấy công chánh định quyết là tại ḿnh gây oán. Hạng thực dân có chăng là hồi trước, khi có Pháp mới đến đây, lúc ban sơ đem binh chiếm đoạt Việt Nam, c̣n ngày nay đám thực dân đó lại của Việt Nam, cái rối là do đàn bà Việt Nam sanh họ ra mà họ ḍm thấy mẹ nghèo nàn cha th́ sang trọng vinh hiển. Cũng như đứa con trong nhà thấy cha có bánh nhiều hơn tức phải bỏ má. Ông cha họ có đủ tài đức đủ quyền bảo vệ họ, họ bợ đỡ nương theo đặng sống. Làm mẹ bất tài th́ chúng phải nương sống theo cha, có ǵ là lạ. Sống một cách vinh hiển mà chính ḿnh họ vẫn không biết thực dân là ǵ? Họ phân trần với Bần Đạo như vầy: "T́nh trạng của chúng tôi như vầy mà lên án chúng tôi là thực dân chúng tôi không biết làm thế nào" mà nói họ thực dân hỏi vậy ḿnh chưởi ai? Tức nhiên chửi ṇi giống ḿnh, bởi họ là người Việt Nam, cứ ghét, cứ xô đuổi họ th́ tài nào thỏa hiệp chủng tộc được.

Thử hỏi lại, tại nơi ḿnh cả. Chính Bần Đạo thấy tấn tuồng ấy không phải là số ít, v́ đă bao nhiêu năm giao quyền công dân trong tay, lănh đảm nhiệm mà họ không thi thố. Nếu họ không đi đến phận sự họ th́ tội họ chịu. Thật ra cả thảy đều không dám, họ cảm xúc đến nước nhà, khi Bần Đạo ra về họ than nói: "Từ thử tới giờ tôi mới nghe được lời an ủi của mẹ chúng tôi", thế mà từ bấy lâu quốc dân gây oán, chác hờn làm cho tan ră khối thân ái, thành ra khó đặng ḥa nhau. Nếu thảng tai nạn nầy xảy ra là do nơi sự chia rẽ.

Muốn cứu văn t́nh thế th́ phải t́m phương bồi bổ t́nh thân ái rồi ngày kia mới giải quyết được tương lai vận mạng của chủng tộc nước nhà ta đó.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 03-09-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 05-10-1948).


 

52- SỰ ĐIỀU H̉A CÀN KHÔN VƠ TRỤ.

 

Tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 9 năm Mậu Tư (1948)

 

Bần Đạo ngày nay đ́nh giảng cuộc dục tấn của chúng ta trong đường Thiêng Liêng Hằng Sống, đặng minh thuyết một đề mục trọng yếu liên quan cả Đạo Giáo của đời. Bần Đạo thuyết con đường điều ḥa của Càn Khôn Vơ Trụ tức nhiên là khuôn luật tạo đoan cả Càn Khôn Vơ Trụ vạn vật hữu h́nh ta ngó thấy đây vậy.

Vả chăng hễ ḥa mới hiệp, hiệp mới có định, mà hễ có định mới có an. Bằng chẳng vậy sẽ có phản động lực. Hễ không ḥa tức giục cho phải nghịch, hễ nghịch phải ly, mà ly, tức nhiên động, hễ động tức nhiên phải loạn. Dầu cho chúng ta quan sát về Đạo Lư Học, Triết Lư Học, Tâm Lư Học, Cánh Trí Học, ta thấy quả quyết cả cơ quan tạo đoan hữu h́nh trước mắt ta, nếu không tùng khuôn luật điều ḥa, Bần Đạo tưởng Càn Khôn Vơ Trụ nầy đă tiêu diệt. Dầu cho về Đạo Lư Học, ta ngó thấy khởi đầu nếu cái khối ngươn linh của Đức Chí Tôn không ḥa hiệp với ngươn âm của Phật Mẫu, th́ Thái Cực chưa ra tướng, hễ Thái Cực chưa ra tướng tức nhiên Càn Khôn Vơ Trụ nầy không có ǵ hết.

Chúng ta ngó thấy hành tàng tạo đoan trước mắt ta là sự điều ḥa trong thân thể. Và triết lư Đạo Giáo ta biết rằng: Nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng tạo thành xác thịt th́ ta không có. Ta không sanh ở đây, nói gần hơn nữa nếu nhứt điểm tinh thần của cha ta không hiệp với huyết bổn của mẹ ta, th́ tức nhiên không có sự hiệp ḥa cả khuôn luật tạo đoan như trong bài thuyết pháp của Bần Đạo hôm nay.

Ấy vậy chúng ta nương nơi ḥa khí đặng hay chăng? Cả cơ bí mật của ta dầu cả h́nh thể tạo đoan ta ngó thấy con vật trước mắt ta, nếu không ḥa th́ không có sanh, không ḥa chắc có thể tạo đoan không có nam, nữ, cốt yếu sanh nam, nữ đặng hiệp ḥa nhau tức nhiên sanh sản loài người, ngoài ra nữa ta đă ngó thấy, nếu như không có điển lực điều ḥa do Thiêng Liêng định, tức nhiên Bần Đạo dám chắc chưa có thành Đạo. Bởi có ai thuận với ai đâu. Các chủng tộc cũng nương theo khuôn luật hiệp ḥa ấy mới tồn tại, mới hiệp chủng tộc được. Về triết lư học chúng ta ngó thấy nhiều phản ảnh nó không thế ǵ in nhau được. Hễ hiểu đặng quyền năng của Đạo, tỷ như lửa và nước hai món ấy không thế ǵ gần nhau được như chúng ta thấy máy tàu, trước khi đă t́m ra năng lực của nước, hiểu được như hơi nước, nó sẽ có cái quyền lực xô đẩy cả sức nặng 30.000 tấn; quả nhiên trước mắt chúng ta thấy, hiện tượng không thế chối đặng. Lại nữa cái điển lực thiên nhiên, ta thấy khí âm đụng với khí dương thành ra sấm sét, lửa sét ấy do hơi điển âm đụng với điển dương biến ra khối lửa. Nó mạnh thế nào chúng ta ngó thấy không thế ǵ tưởng tượng được. Đem điển âm để riêng ra cách bức điển dương hai cái đụng nhau dữ dội lắm. Ta thấy năng lực của hơi nước thế nào tức nhiên ngày nay ta thấy không thua ǵ điển lực. Bây giờ, ta có phương pháp thâu đặng, thâu nhỏ lại làm ngọn đèn sáng suốt.

Cả h́nh trạng quốc gia xă hội hay là Đạo Giáo thiên nhiên cũng vậy. Cái khuôn luật hoà là cái khuôn luật để tạo ra Càn Khôn Vơ Trụ. Có nhiều cơ quan phản khắc nhau ta có quyền năng làm cho họ hiệp lại, th́ cơ quan tạo đoan nắm trong tay, cũng như chúng ta ngó thấy không thế tưởng tượng hai khối chung hiệp nhau đặng làm ra ngọn lửa. Ngọn lửa ấy nó soi sáng trong gia đ́nh hiện tượng.

Bây giờ xă hội nhơn quần trên mặt địa cầu nầy, ta ngó thấy đời loạn lạc tàn bạo cùng nhau tại sao? Tại nơi cơ thể hữu h́nh không làm thỏa măn loài người. Hại thay! Cơ quan hữu h́nh không làm thỏa măn tâm lư loài người từ thử đến giờ. Tinh thần ấy chỉ có nương theo Đạo Giáo và biết nhẫn nại, biết định hướng, biết tự chủ, biết định phận, trong thân sống ta. Ngày nay Đạo Giáo trên mặt địa cầu nầy hết quyền năng vi chủ hoàn cảnh quá khổ năo của loài người. Đời thảm khổ càng tấn tới, thấy cái sống càng khó khăn, nền văn minh càng tiến, lên một bước th́ khối thảm khổ của loài người càng thêm nữa. Hỏi đương nhiên bây giờ ngó các chủng tộc đối nại nhau, tranh sống với nhau, phản khắc nhau. Bần Đạo đă nói hồi năy, nếu không ḥa nhau đặng tất nhiên phải nghịch, lẽ nghịch tức nhiên phải ly, hễ ly tức nhiên phải xao động, hễ xao động tức có loạn lạc.

Bây giờ hỏi muốn t́m giải pháp để cứu t́nh thế chúng ta, để thử tinh thần trí năo, suy đoán xem, ta thấy rằng: Không ḥa mới có nghịch mới có ly, như không đồng tâm đồng chí, đồng sống cùng nhau th́ tức nhiên có xao động. Bần Đạo nói cả Vạn Quốc đó vậy. Động tức nhiên phải loạn.

Bây giờ muốn t́m phương pháp trị loạn đặng, phải phương chiêu an, nó đương động, ḿnh phải giải thoát, nó đương ly cách, ḿnh t́m phương hội hiệp. Bây giờ nó đương nghịch, ḿnh t́m phương pháp ḥa nó vậy. Phương pháp đó t́m được không? Trước Đức Chí Tôn chưa đến mở Đạo, chúng ta nói chắc chưa thế ǵ t́m được hoàn thuốc cứu thế đó. Ngày nay Đức Chí Tôn đă đến, chính Ngài thấy nỗi khốn khó của loài người, v́ loạn lạc tự diệt nhau, Ngài đem hoàn thuốc phục sinh, hoàn thuốc cứu loài người, tức nhiên Ngài đem Đạo Giáo chơn truyền của Ngài là đem cái ḥa khí để tại mặt địa cầu nầy. Mà ḥa khí ấy nó lan tràn ra, nó bao trùm cả mặt địa cầu nầy hết, chính bịnh loạn kia do sự bất ḥa mà ra, nếu đem hoàn thuốc ḥa trị nghịch, tức nhiên hết loạn, th́ phải an.

V́ cớ Bần Đạo dám quả quyết: Nếu ta muốn t́m mối Đạo chơn chánh, mắt ta thấy đương nhiên bây giờ các nền Tôn Giáo không điều ḥa tâm lư thiên hạ, lại giục loạn tinh thần thiên hạ tức nhiên là không thế ǵ tồn tại được.

Đạo Cao Đài ngày nay là một nền Tôn Giáo đem ḥa khí cứu văn t́nh thế. Bần Đạo xin nhắc lại và căn dặn lưu tâm đến những lời chí thiết của Đức Chí Tôn, hễ một hành tàng nào của chúng ta làm cho tâm lư con người phải rối loạn, ly tán, ngỗ nghịch tức nhiên phạm tội Thiêng Liêng. Đừng tưởng rẻ, bởi nó xô đẩy loài người trong trường chiến, và sẽ có cơ quan tận diệt nhau không dứt, không cứu chữa đặng, th́ chúng ta sẽ là tội nhơn đệ nhứt của nhơn loại vậy.

Ngọn Bạch kỳ của Đức Chí Tôn tức ngọn cờ Cao Đài phải định an cho Vạn quốc toàn mặt địa cầu nầy, làm cho ḥa thuận nhau, mới xứng đáng một nền Tôn Giáo chính ḿnh Đức Chí Tôn đến tạo đó vậy.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 14-09-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 16-10-1948).


 

53- LỄ CẦU SIÊU CHIẾN SĨ TRẬN VONG.

 

8 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 10 năm Mậu Tư (1948)

 

Ngày nay là ngày cầu nguyện cho các Thánh Tử Đạo tức nhiên là ngày lễ các Thánh.

Nguyên căn ngày nay là khi Đức Chúa Jésus Christ giáng sanh có tiên tri rằng Chúa Cứu Thế sẽ ra đời làm chủ tinh thần thiên hạ, các vị Vua Chúa ác sợ mất quyền t́m cách giết Chúa. Nhưng v́ đă lánh khỏi, chúng biết ngày sanh, v́ oán hờn, mà đeo đuổi bắt con nít đẻ trùng ngày với Đức Chúa mà giết. Kẻ bị giết ngày ấy đều đặng hiển Thánh v́ Chúa mà chết thay thế cho Chúa, nên Thiên Chúa Giáo lấy ngày ấy làm ngày kỷ niệm các Thánh bỏ ḿnh v́ Chúa. Ngày nay là ngày kỷ niệm các chiến sĩ trận vong, các chiến sĩ ấy hy sinh cho quốc gia, v́ nước nhà, v́ ṇi giống, v́ nhơn loại họ không tiếc mạng sống, đứng lên để mưu hạnh phúc cho toàn cầu gầy dựng lại Quốc gia.

Ấy là các Thánh vô tội đă hy sinh tạo hạnh phúc cho toàn thiên hạ cho kẻ khác hưởng, bởi thế ngày nay chúng ta nên hội hiệp nhau lại làm lễ cho long trọng mà cầu siêu cho các chiến sĩ đă hy sinh bảo vệ sanh mạng tồn tại của thiên hạ. Ngày nay là ngày trọng yếu, mà lại là ngày lễ của Chính Phủ chọn lựa. Chúng ta nên để tâm cầu nguyện đặng tỏ rằng người sống không bao giờ quên kẻ chết, và kẻ chết cùng người sống vẫn có một quan niệm chung thờ một chủ nghĩa, duy có khác là cái chết và cái sống, ngoài ra không ai phân biệt được, mà nếu không phân biệt được th́ nhơn loại có một mà thôi. Tinh thần vẫn một, sự phân biệt đó là tại tâm lư phàm phân chia, chớ tinh thần không phân màu sắc dân tộc nào hết, chỉ có một quê hương chung là cơi Thiêng Liêng Hằng Sống, có một Đấng Chúa Tể là Trời.

Cả thảy chúng ta ngày nay chung hiệp lại để cầu nguyện cho các bạn ta hay người ân của ta để cho các Đấng linh hồn đặng siêu thăng. Và chúng ta cũng hiến trọn cả thi hài nầy cho Chí Tôn, th́ bất kỳ cầu chuyện chi, ta làm sự ǵ tức là dâng cho Ngài cả. Xin Chư Chức Sắc Thiên Phong và Chư Chức Việc Đạo Hữu phải thành tâm hiến lễ cho Chí Tôn như chúng ta dâng mảnh thân ḿnh cho Ngài vậy.

 

Đức HỘ PHÁP nói:

Người thật tâm ái quốc, dầu đối với việc nhỏ mọn bao nhiêu mà ích nước lợi dân cũng cố làm, c̣n trái lại cảnh ngộ đă đem đến cho đặng danh cao lợi lớn đi nữa, mà nghịch với quyền lợi và tổn thương cho Quốc thể cũng không làm.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 02-10-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 02-11-1948).


 

54- LỄ KỶ NIỆM ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.

 

Tại Tháp Đức Quyền Giáo Tông,
8 giờ sáng ngày 13 tháng 10 năm Mậu Tư (1948)

 

Ngày hôm nay chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Quyền Giáo Tông. Chơn linh của Ngài cả toàn con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ đều biết là chơn linh Đức Lư Ngưng Vương. Mười bốn (14) năm qua chúng ta chịu tâm tang nơi ḷng, v́ mất một vị mà Đức Chí Tôn chọn lựa, một vị Đại Tiên đến mở cơ quan cứu thế cho đời. Chúng ta tưởng niệm lại trong buổi sanh tiền của Ngài, Ngài đào tạo cho thành nền Chơn giáo Cao Đài; Ngài đă chịu bao khổ hạnh. Giữa thế kỷ 20 nầy, tâm lư nhơn sanh thất đạo, đem một cái ḥa b́nh nêu cao lên làm trung tâm điểm cho tinh thần đạo đức nơi cơi Á Đông, đă mỏi tay gióng trống Lôi Âm, reo chuông Bạch Ngọc, mà nhơn loại giả vờ điếc đui không biết cơ quan cứu thế là ǵ hết. Đem cái khối sanh quang phục sống cho họ trong chốn tử địa sắp tới đây, mà họ chưa tỉnh ngộ đặng lo bảo trọng sanh mạng, biểu sao kẻ đại diện của Đức Chí Tôn thuở sanh tiền không bị thiên hạ khinh rẻ. V́ tâm lư chia rẽ đó, ngày nay có nạn tàn sát tiêu diệt nhau. Ta nhớ lại, 14 năm Ngài đă khuất dạng, tạo dựng được cho khối tinh thần thống nhất cả lương tri của toàn con cái Đức Chí Tôn. C̣n cả thảy h́nh ảnh nền Chơn giáo Đức Chí Tôn chưa có hiện diện ǵ hết. Cũng v́ chịu thâm t́nh ấy, Bần Đạo ra gánh vác trách nhiệm nặng nề trong buổi nền Chơn giáo Đức Chí Tôn phải chiến đấu đặng đem sự chơn thật, đặng đem công lư gieo vào tinh thần loài người. Biết bao nhiêu lực lượng đối phương đă thống nhứt lại với nhau đặng toan diệt Đạo. Trong 14 năm khuất bóng Ngài, Bần Đạo chịu khổ hạnh 6 năm đồ lưu, c̣n trụ lực lượng đặng tạo h́nh thể nền Chơn giáo chỉ có 8 năm mà thôi. Bao giờ cũng vậy, năng lực tinh thần chẳng có lực lượng hữu h́nh nào tiêu diệt nó đặng. Nhờ âm điệu điều ḥa trong khuôn luật mà ngày nay Đạo Cao Đài đă nên h́nh tướng, đă đứng giữa hoàn vũ nầy một cách vinh quang. Nhờ lẽ chơn thật của nó, không có lưỡi gươm bén nào trị tinh thần đặng, th́ không có lực lượng nào đè nén đặng. Nó phải thắng đời để cứu đời. Một nền Chơn giáo cao thâm tinh thần dường nầy sẽ bất tiêu, bất diệt. Nhờ ơn đầu tiên của Ngài khai mở, chúng ta hăy cúi đầu cầu nguyện và cảm tạ ơn Ngài.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 13-10-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 13-11-1948).


 

55- LỄ HẠ NGƯƠN NĂM MẬU TƯ.

 

Tại Đền Thánh, đêm rằm tháng 10 năm Mậu Tư (1948)

 

Kỳ lễ Hạ Ngươn nầy nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn đă đặng 24 tuổi. Trong thời gian 24 năm, nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn đă trải qua biết bao nhiêu nỗi khó khăn thiên chuyển, buồn có, khóc có, vui có, nhục có, vinh có, hận có, trong 24 năm cả thảy Thánh Thể của Ngài và toàn con cái của Ngài nam, nữ đă chịu biết bao nhiêu khổ hạnh, đă chịu biết bao nhiêu nỗi thê lương, buồn thảm; chúng ta ḍm lại ngày nay, cái nền Chánh Giáo Đức Chí Tôn cho ṇi giống chúng ta, đă thành tựu rồi đó. Chúng ta suy đoán coi nó có đặng giá trị mà chúng ta đă mua chuộc trong 24 năm trường chăng?

Hồi tưởng, nếu chúng ta công tâm, nhất là cho cái lương tri, nghĩa là lấy trí năo xét đoán, th́ chúng ta biết nh́n nhận rằng: Với cái đại nghiệp Thiêng Liêng dường ấy, một cái cơ quan trọng yếu đă độ được toàn thể quốc dân, về phần xác và phần hồn, mà đổi chuộc cái khổ hạnh của chúng ta th́ không có nghĩa lư ǵ hết. Chúng ta xem lại, lấy công tâm suy đoán, những khổ hạnh của các vị Giáo Chủ từ trước, vâng mạng lịnh của Đức Chí Tôn, đến tạo Đạo cứu Đời chẳng phải chịu khổ năo về phần hồn mà thôi, về phần xác của họ cũng bị đọa đày thảm thiết.

C̣n nói về nhục th́ thôi? Không vị nào không khổ nhục chơn linh, đó chúng ta nh́n thấy Chí Tôn không có thiếu nợ chúng ta bao giờ. Bởi v́ Ngài không khi nào thiếu nợ con cái của Ngài, dầu t́nh cũng vậy, Ngài chỉ biết cho mà không biết hưởng, từ thử đến giờ chưa có kẻ phàm nào đă đem tinh thần, trí năo, tâm hồn dùng làm tôi tớ cho Ngài mà bị lỗ lă bao giờ chỉ đặng lời mà thôi, thế gian người ta thường nói chúng ta chết là hết. Chúng ta thử suy đoán, với một kẻ mà đă đem trọn kiếp sanh ḿnh làm con tế vật cứu thế như Đức Chúa Jésus Christ đem thân ra chịu khổ hạnh truyền giáo thật ra chỉ vỏn vẹn có hai năm thôi, kế bị dân Do Thái đóng đinh trên cây Thánh Giá như kẻ thường t́nh kia. Một Đấng Quân Vương, một Đấng chủ trương, bất kỳ là xă hội nào hay là một cơ đồ nào, đối với một tội dường ấy có thể nói đến Đấng Jésus Christ hồi c̣n sanh tiền đi truyền giáo cho dân lại bị khổ nhục, nhứt là bị bắt buộc măi trong ṿng tù tội, nỗi khổ hạnh cái nào mà Ngài không có, cho đến Ngài chịu chết trên cây Thánh Giá, Ngài chưa biết buổi nào là hạnh phúc trong kiếp sanh của Ngài hết. Ngài chết trên cây Thánh Giá với mảnh thân tù và tội tử h́nh.

Chỉ có Đức Jésus Christ cho một Đấng thiếu nợ mà thôi, mà Đấng ấy là Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ là Thầy của chúng ta ngày nay đó vậy. Có một Đấng đó thiếu nợ tiền khiên, mà đă hai ngàn năm Đạo Thánh Gia Tô làm chủ tâm lư cả toàn thiên hạ trên khắp mặt địa cầu nầy, c̣n cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối,(*1) buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu. Chúng ta thấy lời than của Ngài th́ biết đời chẳng ai nghèo nàn hơn Đức Chúa Jésus Christ. Ngày nay hiển nhiên trước mắt chúng ta thấy vinh quang vô đối của Ngài, về mặt xác thịt và linh hồn làm Chúa cả gần toàn mặt địa cầu nầy. Hỏi nợ ấy ai trả đặng, chỉ có người đó cho, là người đó trả, với một kiếp sanh vinh diệu, sang trọng oai quyền.

Từ thử đến giờ dưới thế gian Đức Chí Tôn chưa cho người nào khác nữa. Ấy vậy một Đấng không từ chối cái nợ của ḿnh, với kẻ chết mà đă 2.000 năm vẫn tiếp tục đền bồi cái nợ ấy; Đấng ấy chẳng khi nào phụ răy cái Thánh Thể của Ngài, và con cái của Ngài. Bần Đạo biết hẳn vậy, hằng khuyên chúng ta giữ đạo đức tinh thần đặng làm tôi tớ của Ngài, làm môn đệ của Ngài, hay là đặng làm con của Ngài, v́ có bao nhiêu đó mà thôi, Đấng ấy không hề chịu nợ t́nh với chúng ta. Trong 24 năm tạo nên h́nh tướng nền Đạo, tạo dựng Đền Thờ tối cao tối trọng nơi thế gian nầy, th́ Ngài không hề phụ răy bao giờ.

Bần Đạo nói không nợ t́nh nhỏ nào đối với Ngài mà bị mất không được đền bù lại, trong 24 năm chúng ta làm tôi làm môn đệ cho Ngài, chúng ta chỉ có một điều duy nhứt là hiến dâng cả thi hài ta làm con tế vật cho Ngài, đặng Ngài dùng từ tâm ân xá cho toàn nhân loại đă gây tội t́nh với Ngài từ buổi tạo thiên lập địa tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài là ân xá lần thứ hai (ba?)(*2), trên mặt địa cầu nầy vậy.

Nếu kỳ ân xá ấy đạt được, th́ nạn tương tàn, tương sát với nhau mới tránh khỏi. Nếu kỳ ân xá ấy đạt không được th́ có một trường quyết chiến thảm khổ, sẽ trải qua trước mắt chúng ta mà từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa hề có.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 15-10-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 15-11-1948).
(*1) Nơi đoạn thứ 4: Chỉ có Đức Jésus Christ cho một Đấng thiếu nợ mà thôi,... ... ..., c̣n cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối, buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu...
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Chỉ có Đức Jésus Christ cho một Đấng thiếu nợ mà thôi,... ... ..., c̣n cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối. Buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu...
(*2) Nơi đoạn thứ 6: Bần Đạo nói không nợ t́nh nhỏ nào đối với Ngài mà bị mất không được đền bù lại,... ... ... từ buổi tạo thiên lập địa tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài là ân xá lần thứ hai (ba?), trên mặt địa cầu nầy vậy.
Chúng tôi nghĩ là
lần thứ "ba", không rơ có phải sơ sót kỹ thuật chăng?


 

56- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT TRONG DỊP LỄ THIÊU XÁC CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ.

 

ĐỨC HỘ PHÁP thuyết

Kẻ nào hiếp các con tức là hiếp Thầy, mà hiếp được Thầy là một việc không dễ dàng ǵ vậy.

Ngày kia, khi Đạo Cao Đài đă mạnh mẽ tràn lan khắp năm châu. Lúc ấy thế giới sẽ đua nhau về đây thỉnh Ngọc Xá Lợi của Liệt Thánh về chiêm ngưỡng cũng sẽ không kém ǵ cuộc cung nghinh xá lợi Phật của thế giới ngày nay vậy.

Ngày rằm tháng giêng năm Ất Mùi (dl. 07-02-1955)

 


 

57- MÓN ĂN CỦA LINH HỒN.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm mồng 1 tháng 11 năm Mậu Tư (dl. 01-12-1948)

 

Kỳ nầy Bần Đạo đ́nh thuyết về sự dục tấn của các Linh Hồn chúng ta trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, đặng thuyết về một vấn đề cần yếu nhứt có ảnh hưởng yếu trọng đến phần hồn chúng ta.

Thời gian Bần Đạo để chơn trở về Đền Thánh, Bần Đạo chú trọng một điều, chẳng những chú trọng mà thôi mà c̣n buộc cả Chức Sắc phải đi cúng tại Đền Thánh. Lư do ấy như thế nào Bần Đạo xin thuyết minh cho toàn cả hiểu biết, rồi mới rơ cái huyền vi bí mật phương tu của ḿnh hầu gắng công lo tu thêm nữa.

Ai cũng thường nói ḿnh t́m Đạo, Đạo đă để trước mắt ḿnh, nói quả quyết hơn Đạo để nơi ḿnh, của ḿnh. Ấy vậy là vật Chí Tôn đem đến để trong tay của kẻ làm chủ quyền sở hữu nó.

Bần Đạo nhớ khi nền Đạo mới phôi thai, buổi ban sơ xuống tại Thủ Đức ở trót 7 tháng trường, nhờ ơn đức của Giáo Tông d́u dắt, giáng bút giáo hóa, buổi chưa rơ thông chơn lư của Đạo, c̣n mập mờ, t́m hiểu, nhiều khi v́ sự ham muốn biết, đă vấn nạn Ngài nhiều điều quá đáng, như ngày hôm nay và tương lai nếu ai xúi hỏi nữa, chắc Bần Đạo không dám. Có một phen Ngài đến dạy Bần Đạo, Ngài than: Cái tâm lư nhơn loại đương nhiên đă khiếm khuyết đạo đức tinh thần, v́ cớ trường đời hỗn loạn, hàng trí thức hoặc tu niệm tiềm tàng thấu đáo, muốn t́m phương hay sửa chữa, cứu văn t́nh thế của đời. Hại thay, buổi ấy Đạo Giáo lu mờ, thiên lương hết tồn tại, làm thế nào mà nhơn loại biết chủ định quyền hành ḿnh đặng tự lập, tự trị lấy ḿnh. Cả thảy chỉ biết tự lập tự trị ḿnh th́ mới mong hiểu được huyền vi bí mật. Tự sửa ḿnh mỗi cá nhân, đến xă hội, đến cả nhơn loại biết tự trọng ḿnh được th́ cứu văn t́nh thế nguy ngập tàn diệt nầy được.

Hại thay! Tấn tuồng ta thấy trước mắt, thiên hạ bị nạn chiến tranh tàn diệt do nguyên lư của nó là tinh thần nhơn loại thiếu đạo đức, v́ thiếu đạo đức nên vật dục mới xô đẩy họ t́m phương sống, t́m hạnh phúc trong phương sống ấy. Hạnh phúc không có h́nh dáng, tạo hạnh phúc chỉ tưởng đâu diệt nhau đặng bảo thủ phương sống của ḿnh, chẳng khác nào như con vật chỉ biết giành sống với nhau, ngoài ra tranh giành đặng bảo thủ mạng sống không c̣n biết đạo đức nhơn nghĩa ǵ hết. Giờ phút nầy đương nhiên tấn tuồng nguy khốn cả toàn nhơn loại, do nguyên lư tinh thần đạo đức, không tồn tại, chẳng phải không tồn tại mà thôi, họ lại c̣n từ chối cái tinh thần đạo đức nên không c̣n có giá trị đối với họ. V́ cớ Chí Tôn đến tạo Đạo.

Bần Đạo nhận thấy cả sự bạc nhược tinh thần, đương thế kỷ hai mươi nầy, văn minh khoa học giục thúc nhơn loại mở cả tinh thần trí năo đến cực điểm, họ tưởng có thể vi chủ cả sanh mạng họ mà chớ. Cũng có kẻ dầu có học thức như Phan Thanh Giản hồi đi sứ sang Pháp Triều thấy cả nền văn minh phát khởi đến huyền vi tư tưởng. Ngài là người văn học trí sĩ của nước Nam ta, đến cũng phải sợ sệt, nhận rằng nền văn minh đă đến mức cao cực độ. Ngài dâng sớ cho nhà vua, nói một câu nói dường nầy quá lẽ:

"Dĩ nghệ tề thiên địa,
Chỉ nhượng tử sanh tạo hóa quyền".

Ngài nói rằng: Cái quyền hành vi chủ, duy vật chẳng nhượng quyền tạo hóa, chỉ có chết sống mới nhượng cho quyền tạo hóa mà thôi. Thành thử ḿnh thấy văn chương khoa học đương nhiên làm chủ tư tưởng của con người.

Hại thay! Nếu khoa học mà d́u dắt tâm lư nhân sanh đến đạo đức tinh thần th́ may biết bao, trái ngược lại văn minh ấy chỉ giục thúc phương sống vật chất, họ t́m hạnh phúc trong cái sống vật h́nh, v́ cớ Đạo Giáo mất quyền. Bần Đạo tưởng người khác hơn Bần Đạo cũng lưu ư đến điều ấy, nên đă vấn nạn Đức Lư Giáo Tông. Hỏi rằng: "Đương thế kỷ hai mươi nầy văn minh cực điểm đă đi quá cao rồi, đem đạo đức tinh thần làm thuyết cứu thế, sợ e chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ nhơn loại c̣n bảo thủ được khối thiên lương biết xu hướng đạo đức, tinh thần đạo đức buổi ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiều phân nên hột giống mới mọc đặng, c̣n thế kỷ hai mươi nầy là thời kỳ văn minh vật chất, nếu đem đạo đức ra làm môi giới, cứu văn t́nh thế cho đời, e vô hiệu quả.".

Ngài than! Nói quyết đoán rằng: "Theo lẽ Hiền Hữu nói nhơn loại ngày giờ nầy không cần đạo đức có phải?".

Bần Đạo trả lời: "Thật vậy, nhơn loại buổi nầy không cần đạo đức, chỉ t́m hạnh phúc nơi văn minh khoa học, cũng có thể được chớ?".

Ngài cười: "Văn minh khoa học chỉ nuôi phần xác thịt họ mà thôi, c̣n phần linh hồn dám chắc họ sẽ đói".

Bần Đạo vấn nạn: "Tại sao Ngài nói linh hồn đói, linh hồn có ăn sao mà đói?".

- Phải, phải có vật thực đặng bảo dưỡng nó như thi hài vậy, nếu không vật thực nó sẽ tiều tụy rồi chết mà chớ.

Luôn đó Ngài lấy triết lư cao siêu mà dạy Bần Đạo trong một con người có ba xác thân gọi là tam hồn và bảy vía gọi là thất phách liên hệ mật thiết cùng nhau. Đương nhiên trong thân thể của mỗi người có 3 xác thân ấy cần bảo dưỡng mới tồn tại được. V́ cớ Đức Chí Tôn cho biết, trí thức và linh hồn trọng yếu do căn nguyên của sự sanh hoạt của nó định cái ngă tướng cho ta. Ba xác thân ấy phải nuôi sống, mới tồn tại như xác thịt thể h́nh ta vậy. Đạo Giáo là tinh, phải ẩm thực, tinh mới sống, xác thịt giữa là xác thân trí thức tinh thần, ta thấy con người chẳng phải t́m món ngon vật lạ đặng bảo thủ xác thân, c̣n coi hát, nhảy đầm, vui chơi, cờ bạc, hút sách tưởng là t́m món ăn cho trí thức đặng bảo dưỡng, mà không biết rằng đó là hại cho trí thức.

Bây giờ tới linh hồn cũng phải có vật thực cho nó chớ. Vật thực là cả triết lư cao siêu tồn tại đấy. Đệ nhị xác thân gọi là khí, Chí Tôn gọi là chơn thần, nó làm trung gian cho xác và hồn, hễ lương năng th́ nó bảo thủ xác thịt thể h́nh, c̣n lương tri nó t́m vật thực nuôi linh hồn. Ta nuôi linh hồn bằng ǵ? Vật thực nuôi sống bằng xác thịt, c̣n linh hồn sống đặng là nhờ đạo đức tinh thần đó vậy. Ta tu tức là ta t́m phương bảo trọng cho tồn tại đạo đức tinh thần đặng nuôi linh hồn hầu đạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật d́u dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực lượng quyền năng giong ruổi trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.

Đạo đức t́m nơi đâu mà có đặng? Tức nhiên t́m nơi cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mới có, mà t́m nơi cửa Thiêng Liêng tức là cửa Đạo, buổi ăn của linh hồn là buổi ta vô Đền Thờ cúng đấy. Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Đền Thờ là bị luật buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh hồn ăn vậy. Bần Đạo tưởng thấy trong trí cần phải buộc cả thảy đi cúng, v́ trong thâm tâm Bần Đạo định cho mấy người chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê, đưa cho gói bánh nói thứ ăn chẳng đặng, rồi khi đă biết mùi rồi bán cả áo, cả quần mà mua ăn.

Giờ phút nầy phái Nữ chưa biết mùi ngon của món ăn cho linh hồn. Ngày giờ nào cả thảy biết mùi của nó, ngày giờ ấy có đến ít nữa với những kẻ biết hoặc đói khát dữ tợn kia mới biết ăn ngon. Phàm đói cho lung ăn mới ngon. Nhưng coi chừng Bần Đạo khuyên một điều, đừng để quá đói mà chết đa. Hại thay vật ăn của linh hồn có quyền năng thiêng liêng vô tận, giúp ta giải bày cái ác như là cổi áo, chớ không phải mặc chật như dính vào da, rồi ngày giờ thoát xác, tinh thần thế quyền Thiêng Liêng lột từ miếng đau đớn linh hồn chẳng biết bao nhiêu, chừng đó có ăn năn rồi mới biết sợ.

Không có một điều ǵ mà Chí Tôn định trong Chơn giáo của Ngài, dầu Bí pháp, dầu Thể pháp mà vô ích đâu. Đấng ấy là Đấng tưng tiu, yêu ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều ǵ không cần ích mà con cái của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa. Từ ngày Khai Đạo, Kinh kệ, Lễ bái, sự chi sắp đặt về đạo đức cũng chính Chí Tôn tạo thành, không phải do các Đấng khác. Ngài buộc ḿnh làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó, Ngài mới buộc. V́ cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần Đạo bó buộc nghiêm khắc có lẽ những kẻ biếng nhác cũng phàn nàn lén lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp mặt Bần Đạo nơi Thiêng Liêng, Bần Đạo sẽ hỏi các bạn coi khi c̣n ở thế Bần Đạo buộc cả thảy đi cúng là có tội hay có công. Công hay tội ngày giờ ấy Bần Đạo hỏi rồi chúng ta sẽ có một tấn tuồng tâm lư ngộ nghĩnh với nhau vô cùng tận, chừng đó mới biết lẽ nên hư.

Ngày nay, giờ phút nầy, Bần Đạo đứng tại giảng đài nầy để lời khuyên nhủ: C̣n biếng nhác quá! Xác thịt đă hư rồi đến linh hồn, phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn năn quá muộn.


 

58- NĂNG LỰC TINH THẦN ĐẠO ĐỨC.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm mùng 9 tháng 11 năm Mậu Tư (dl. 09-12-1948)

 

Hôm nay Bần Đạo định thuyết con đường dục tấn của chúng ta nơi cơi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Có một vấn đề trọng yếu do một trường ngôn luận tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, cho nên ngày nay Bần Đạo thuyết về "Năng lực của tinh thần đạo đức". Cái sở năng của ḿnh cũng như cái huyền bí vô cùng tận của Càn Khôn Vũ Trụ, bởi v́ nó sản xuất do tánh đức di truyền của ngươn linh mỗi người chúng ta, cho nên con đường dục tấn trí thức của toàn nhơn loại trong Càn Khôn Vũ Trụ với cơ quan hữu h́nh tức là xác thịt họ đối lại phần vô vi, tức là ngươn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ chưa có mức hữu định, c̣n dục tấn măi. Sự dục tấn ấy Thiêng Liêng đă định phân ghi một cái mức cho bước đi mỗi người, mức dục tấn ấy là mức Thần, Thánh, Tiên, Phật rồi đến Trời là cuối cùng. Các năng lực đó đă để một trường ngôn luận kịch liệt tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa. Sở năng của mỗi người không đồng nhau địa điểm các chơn linh không đồng phẩm, mà không đồng phẩm tức không đồng vị, mà không đồng vị nhau tức là khác tánh chất. Cho nên không người nào giống tánh chất người nào, mỗi chơn linh có địa vị riêng tư của ḿnh, địa vị ấy tạo thành do phương tu của mỗi người đạt đặng. Bởi không giống nhau như thế mới nảy sanh một trường hổn loạn.

Nếu cả nhơn loại trên địa cầu nầy biết được đặc điểm của địa vị ḿnh, Bần Đạo dám chắc mỗi người sẽ tự hiểu, tự trọng, tự an theo địa vị của ḿnh, th́ không hề có trường tranh đấu vĩ đại như ta đang thấy ngày nay. Nếu Staline biết địa điểm của ḿnh th́ không cần chiến đấu với Marshall với Truman cầm chắc, nếu Hitler biết đặc điểm của ḿnh, địa vị chơn linh của ḿnh thật đứng nơi nào chưa hề nghịch với Churchill, Reynaud đến nỗi có trận giặc thế giới chiến tranh thứ nh́.

Hay biết chẳng chi hơn bực tự giác kia, biết ḿnh biết người, tự giác ḿnh đặng, tức hiểu địa vị của ḿnh đến đặc điểm nào, mới an phận thủ thường, mới xử vẹn đời sống của ḿnh đặng. Người đủ biết đặc điểm địa vị chơn linh của ḿnh đứng vào phẩm vị nào th́ thủ thường tự an, tự lạc, dầu cuộc sống có đảo lộn thế nào đi nữa, đủ chủ định tinh thần ḿnh, không ai làm cho ngă nổi, ấy là các chơn linh biết tự chủ một cách đặc sắc vậy. Nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa có nhiều chơn linh ấy về đặng. Thật không có chơn linh nào dưới thế gian nầy không muốn tu. Có kẻ đổ thừa tại đời sống đa đoan, nào vợ, nào con, nào của cải, nào tiền bạc, nào ruộng nương, đổ thừa thôi đủ thứ, cả đến chức tước quyền hành. Muốn tu ngặt không có bề thế tu đặng. Sự thật cũng có nhiều chơn linh muốn tu; thật tâm muốn mà không làm được. Cũng có kẻ không thế rời cái nhà ḿnh, thậm chí đến không rời cái bà vợ của ḿnh ra được, rồi ngày về Cung Hiệp Thiên Hành Hóa khóc lóc thảm thiết, bào chữa lấy ḿnh, nói: "Tôi muốn tu lắm song t́nh đời c̣n dính dấp" hỏi các Đấng Trọn Lành nơi Cung ấy có cảm xúc chăng? Họ cười! Do ai đă đào tạo cho bạn, ai đă buộc ràng cho bạn trong khuôn khổ ấy, chẳng qua do tiền căn báo hậu, bạn đă làm, bạn phải gánh lấy. Không lẽ, như bạn mượn lúa của người ta ăn mùa trước, rồi mùa sau không trả, nói rằng không thiếu nợ. Bạn muốn tu mà không tu được tại kiếp sanh nầy, xác thịt bị lên án tử h́nh hữu định, tu không được nguyên do tại bạn đă làm, bạn phải chịu, không c̣n cượng lư ǵ nữa, ấy là cái nợ của buổi sanh tiền.

Nếu ḿnh nói "Tôi không biết nguyên căn mối nợ mà tôi mắc, v́ không biết nên trong kiếp sanh tôi không nh́n nó" th́ các Đấng ấy không ngần ngại ǵ dở Thiên Thơ cho ḿnh được thấy quả kiếp đó ḿnh đào tạo.

Lại chối nữa: "Con vợ tôi tại sao nó khó ḷng quá, bước ra một bước đường là nó ghen, không cho tôi tu hành ǵ hết" tới chừng dở Thiên Thơ ra th́ đây: Kiếp trước chú mầy làm vợ cũng vậy, kiếp trước chú mầy làm vợ, c̣n vợ chú mầy làm chồng, tấn tuồng vay trả mà thôi. Không tu được là do quả kiếp lôi kéo không cho chú mầy tu, tại nghiệp chướng của chú mầy, tu rồi ai trả quả cho chú mầy đă tạo đă tạo trước đây. Trong Thiên Thơ nợ cựu, nợ tân lút đầu, mà cửa Hư linh tức cửa Hiệp Thiên Hành Hóa. Các Đấng Trọn Lành chưa hề mở miệng chối tội là nhờ ở năng lực tinh thần của họ, nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có, th́ Chí Tôn ngày nay chưa đến mặt thế nầy, đặng tuyển chọn cả lương sanh tức là các chơn linh hữu căn hữu kiếp, đặng tạo h́nh thể của Ngài. Nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có th́ Đạo Cao Đài ngày nay không nên lập ra.

Ta thấy có một hạng Đại Giác, mà giống bên lành hay bên dữ, bên thiên lương hay bên quỉ quyền cũng vậy, đều có một năng lực tinh thần đặc sắc của họ. Bằng cớ hiển nhiên trước mắt, làm đảo lộn toàn cầu khiến cho nhơn loại phải điên đảo tận diệt, do đầu óc của một người là Hitler, rồi chúng ta c̣n thấy một bằng cớ nữa quá sức tưởng tượng là lực lượng Cộng Sản đương tàn hại cả mặt đời buổi nầy, làm đảo lộn cả tinh thần của con người. Hitler đảo lộn toàn nhơn loại nhờ nương mănh lực của ngọn gươm mũi súng, Cộng Sản đảo lộn tinh thần nhơn loại với lư thuyết Cộng Sản của nó, người đào tạo ra thuyết ấy là Karl Marx. Chỉ có một người mà thôi. Cái năng lực tinh thần của một người c̣n có thể làm cho nhơn loại an toàn hạnh phúc hay tự diệt lấy ḿnh đặng, huống hồ chi Thánh Thể của Đức Chí Tôn do tự Ngài đến chọn, Bần Đạo dám chắc nếu ngày nào các bạn về đến Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, các Đấng Trọn Lành hỏi các bạn đủ năng lực và xứng phận chăng, chắc các bạn không bao giờ dám nói không. V́ nếu không th́ ra sự lựa chọn của Chí Tôn lầm lạc sao? Quả quyết Chí Tôn không hề lầm bao giờ.

Bần Đạo nói: Năng lực của một chơn linh Đại giác c̣n có thể làm cho toàn cầu đảo ngược, th́ năng lực tinh thần của Thánh Thể Đức Chí Tôn, nếu nói năng lực đó là của toàn con cái của Ngài hiệp lại tất đoạt được quyền năng mănh liệt huyền diệu ấy, th́ lo ǵ Thánh Thể của Ngài không tận độ thiên hạ đặng. Không có ǵ nghi kỵ nữa, Bần Đạo quyết đoán phải đặng, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc chầy, hoặc kíp, Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh sẽ làm chủ tinh thần thiên hạ.


 

59- VÍA ĐỨC CHÚA JÉSUS CHRIST.

 

Tại Đền Thánh, đêm 24 tháng 11 năm Mậu Tư (dl. 24-12-1948)

 

1948 năm trước, lúc nầy có một vị Chí Tôn giáng trần giáo Đạo tại Tây Phương, vị Chí Tôn an bang tế thế mang xác phàm lập giáo để một cái nền văn minh vĩ đại cho nhơn loại, tính ra được 1948 năm.

Trước buổi Đức Thích Ca gần qui liễu, ANANĐA và A-Nan-Ca-Diếp đến bên Ngài khóc lóc hỏi Ngài rằng: Thầy qui vị rồi ai dạy chúng con, Đức Thích Ca nói: Có một Đấng đến sau ta, oai quyền hơn ta nữa. Đức Phật Thích Ca đă nói một vị Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ đó vậy. Ấy là một đàn anh đă thông tri cho nhơn loại biết người em kế vị của ḿnh sắp đến, Ngài có nói trước c̣n oai quyền hơn ta nữa, th́ thật quả vậy.

Khi Đức Chúa Jésus Christ giáng sanh ở Tây Phương gần thọ h́nh, các vị Thánh Tông Đồ tức nhiên là Môn đệ của Ngài than rằng: Nếu Thầy thọ h́nh ai dạy chúng con? Ngài nói: Cần yếu ta phải đi, cần yếu ta phải về với Cha ta, ta phải về đặng an vui, rồi sau nầy sẽ có một người đến cùng các ngươi đặng an ủi dạy dỗ các ngươi nhiều điều huyền vi bí mật.

Đức Phật Thích Ca nói sau nầy Đấng ấy c̣n oai quyền hơn ta nữa, Đấng ấy tức nhiên là Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ và Chúa đă cho nhơn loại hay: Sau Đạo Thánh Gia Tô có Đạo Cao Đài xuất hiện đó vậy.

Có một Đấng Chơn linh Tam Thế Chí Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó. Nhứt Thế BRAHMA Phật, tức nhiên là Tạo Hóa, Nhị Thế CIVA Phật tức nhiên Tấn Hóa, Tam Thế CHRISTNA Phật tức nhiên Bảo Tồn, Đấng trọn quyền bảo tồn ấy là ḷng ái tuất thương sanh vậy.

V́ cớ cho nên Đức Chúa Jésus Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy, Ngài đă ngó thấy Nhứt Kỳ Phổ Độ nhơn loại kư ḥa ước với Chí Tôn mà đă bội ước, nên phạm Thiên Điều, nhơn quả nhơn loại gớm ghiết, do nhơn quả ấy mà tội t́nh nhơn loại lưu trữ đến ngày nay, Thánh Giáo gọi "tội tổ tông" chính ḿnh Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để kư đệ nhị ḥa ước với Đức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, kư đệ nhị ḥa ước đặng d́u dắt chúng sanh trở về cùng Đấng Cha lành của họ tức nhiên là Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ chúng ta ngày nay đó vậy.

Đấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đă dẫy đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội t́nh cho nhơn loại, mà lại c̣n đem quyền của Chí Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đă kư đệ nhị ḥa ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào? Do tay Ngài kư tờ ḥa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự giá. Hai chân của Đấng ấy đă đi trước nhơn loại d́u đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Đấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh Giá, c̣n trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô t́nh đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một t́nh ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nh́n nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng, năm 1948 nhơn loại không tầm Giáo lư của Ngài nữa, chắc chắn như vậy. Bần Đạo nói quả quyết rằng, nhơn loại đă quên hẳn Ngài rồi đó. Cho đến ngày nay cả toàn nhơn loại trên địa cầu nầy, không chịu nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên nạn tương tàn tương sát lẫn nhau sắp diễn ra gần đây, nhưng nếu chừng nào toàn cả nhơn loại biết tôn sùng nhau, v́ t́nh cốt nhục, th́ cái nạn tương tàn tương sát trên mặt địa cầu nầy sẽ không có nữa. Hai tấn tuồng, hai thảm trạng như thế có thể đưa nhơn loại đến chỗ tiêu diệt mà chớ, v́ nhơn loại không biết nghe, Đấng ấy đă lấy máu thịt của ḿnh làm con tế vật dâng hiến cho Đức Chí Tôn, để cầu xin tha tội cho nhơn loại. Nhơn loại sẽ mất đức v́ không nghe theo Đấng Cứu Thế, Đấng ấy đă bảo anh em phải yêu ái lẫn nhau, giúp đỡ nhau, sống cùng nhau cho trọn vẹn kiếp sanh. Trái ngược lại đệ nhị ḥa ước kia đă kư kết với Đức Chí Tôn bị nhơn loại bội ước nữa, v́ bội ước mà bảo sao nhơn loại không bị tội t́nh mắc mỏ sao được?

Đêm nay là nhờ hiển Thánh anh linh của Đấng Cứu Thế, Đấng đă để ḷng ưu ái vô tận mong cứu văn t́nh thế nguy ngập, lấy cả t́nh ái ấy làm phương giải khổ cho nhơn loại.

Chúng ta để tâm cầu nguyện cùng Ngài, để Ngài mở con mắt Thiêng Liêng cho chúng sanh đặng nh́n thấy cái chơn tánh của kiếp sống họ nơi nào, đừng mê muội đừng ngu dốt, lấy tinh thần sáng suốt bỏ cái lục dục thất t́nh đầy tội ác nầy.

Muốn tránh cái nạn tương tàn tương sát kia, muốn cứu rỗi lấy họ, hầu làm cái nạn tiêu diệt kia được thoát khỏi ấy là lời cầu nguyện của chúng ta đêm nay đó.

Đức Chúa Jésus Christ đă lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Đức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy.


 

60- BÁC ÁI CÔNG B̀NH.

 

Tại Đền Thánh, đêm 23 tháng 11 năm Mậu Tư (1948)

 

Ngày nay chúng ta đ́nh bộ nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa đặng quan sát cuộc thiệt chiến, chẳng khác nào như Gia Cát qua Ngô, quan sát quân Ngô vậy.

Từ hôm trước tới nay, Bần Đạo thuyết minh những điều vấn nạn của các chơn linh siêu thoát nhưng thiếu đạo đức tinh thần, kiếm t́m cho đủ triết lư đặng học, đặng để phổ độ họ. Chúng ta ngó thấy các Đấng Trọn Lành nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa chưa dễ thắng họ đặng. Cho nên đêm nay tưởng lại kỳ nầy là kỳ chót, kỳ nầy trọng yếu hơn hết, bởi họ vấn nạn về quyền năng của tín ngưỡng và luật điều của các vị Giáo Chủ để tại thế gian nầy. Vấn nạn kịch liệt. Chúng ta nên để ư, nhứt là Chư Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ càng phải để ư cho lắm.

Kỳ trước Bần Đạo đă giảng, tại chỗ nhiều Tôn Giáo làm cho nhơn tâm bất nhứt, hôm nay họ công kích về luật điều. Họ hỏi: Nếu Tôn Giáo có khuôn hữu định, chiếu theo khuôn khổ thiên định, trái lại các vị Giáo Chủ lập giáo bất đồng tánh cách nhau, vị nầy nói vầy vị kia nói khác, phản khắc nhau biểu sao tâm lư nhơn sanh không chia rẽ? Bởi không thống nhứt mà ra. Ta thử quan sát lại coi đạo pháp, đạo luật mấy vị Giáo Chủ ấy vẫn có một phương pháp kích bác nhau, phản đối nhau, không đồng tâm đồng đức nhau, không đồng tánh, không đồng tư tưởng đạo đức tinh thần, biểu sao nhơn loại không chia rẽ, mà chia rẽ tức nhiên giục loạn, làm cho mặt đời loạn lạc, sự loạn lạc ngày nay cũng v́ lẽ ấy.

Các Đấng ở Cung Hiệp Thiên Hành Hóa cười nói: Các Ngài nghĩ thử coi tánh đức của các chủng tộc trên mặt địa cầu nầy không giống tâm lư tinh thần. Đừng nói chi Vạn quốc, trong một quốc gia, một ṇi giống, tánh đức nhơn sanh c̣n không đồng thay. Không ǵ khác lạ, các Ngài buộc Phật Thích Ca Mâu Ni người Ấn Độ lập Giáo tại xứ sở Ấn Độ của Ngài, th́ Ngài có đồng tánh đồng tâm với sắc dân nào khác với Ngài được, nhưng Đạo Phật vẫn truyền bá làm chủ tinh thần khắp Á Đông, hỏi do đâu? Do nơi bác ái và công b́nh. Những phương pháp của các vị Giáo Chủ lập pháp luật trong các Tôn Giáo, cốt yếu mở đường chỉ nẻo cho nhơn loại đi lên hiệp cùng chơn tướng và chơn pháp của Đạo Giáo tức nhiên là tín ngưỡng, thờ Người và thờ Trời, luật pháp duy có bác ái công b́nh mà thôi. Đức Phật Thích Ca nếu nói Ngài không bác ái công b́nh th́ Đạo Giáo không công b́nh sao? Nếu giờ nầy chúng ta không thành Phật th́ Đạo Phật không thành sao? Hỏi Đấng ấy lập Giáo trên nền tảng nào? Có phải nền tảng bác ái chăng? Nếu không bác ái công b́nh, Phật chưa hề đem triết lư cao siêu làm chủ tinh thần nhơn loại đặng. Chúng ta đây ai lo phận sự nấy, lại c̣n giành hơn thua nữa có đâu ép ḿnh như Phật. Nếu không v́ chúng sanh, nếu không công b́nh tâm lư, nếu không ḷng thương yêu đầy dẫy Phật chưa hề hạ ḿnh nâng đỡ tinh thần nhơn loại dường ấy.

Đức Lăo Tử thấy loài người không biết địa điểm tinh thần ḿnh, không biết chơn tướng tinh thần ḿnh để nơi nào định vị cho có giá trị. Ngài sanh tại Trung Hoa tâm lư nhơn sanh không biết phẩm giá tinh thần của con người là ǵ, đến đổi tâm lư loài người buổi ấy sa đọa không biết phẩm vị ḿnh nơi nào, không biết tôn trọng phẩm vị đó nên đọa xuống thú chất vật loại, nếu không v́ bác ái, từ bi thức tỉnh nhơn loại cho biết phẩm vị tối cao của họ, đừng làm con vật nữa. Nếu không phải v́ tâm bác ái công b́nh th́ không hề Ngài lập giáo dường ấy. Ngày nay không phải nơi dân Á Đông nầy thôi, mà cả Âu Châu cũng vậy, biết rơ đạo đức cao siêu của Ngài, người ta theo chẳng biết bao nhiêu.

Các Ngài xét định về mặt tinh thần, lấy cả tinh thần siêu thoát của các Ngài ngó lại coi có phải tinh thần luật pháp của Tiên Giáo chỉ do bác ái công b́nh mà lập đặng chăng? Phương pháp tạo ra có h́nh tướng ấy cốt yếu nâng đỡ tinh thần nhơn loại đến mục đích cao thượng là bác ái công b́nh vậy.

Đạo Nho do Đức Khổng Tử lập tại Trung Hoa. Tại sao có Đạo Nho? Tại Ngài thấy nhơn luân buổi nọ điên đảo cũng như Đức Lăo Tử thấy nhơn phẩm suy đồi, không c̣n giá trị. Tâm lư nhơn sanh buổi ấy mất hẳn cái giá trị nhơn loại, nên tự ḿnh xuống làm vật loại đem Nho Giáo định luật pháp xă hội trị đạo nhơn luân làm căn bản. Hễ ḿnh biết ḿnh tức nhiên biết Thiên Đạo, biết Thiên Đạo mới tùng Thiên lư, tức nhiên tùng thiêng liêng vô h́nh. Ngài không nói danh Chí Tôn là ngôi Chủ Tể, là phẩm tối cao tối trọng của Đạo, chỉ lấy mặt luật bác ái và pháp công b́nh đặng định sống cho nhơn loại, định sống cho cả nhơn quần xă hội, định sống cho cả các chủng tộc nơi mặt địa cầu nầy dầu luật pháp của Ngài trái hẳn phong hóa nhơn loại một đôi nơi trên mặt địa cầu, nhưng nhờ tinh thần đạo đức làm môi giới, từ giờ nầy toàn vạn quốc lưu ư lấy đó đặng chỉnh đốn quốc thể ḿnh. V́ cớ cho nên lập Đạo Cao Đài, Chí Tôn tiên tri rằng: Đạo Cao Đài là cơ báo hiệu cho Vạn quốc hay trước rằng thời kỳ Nho Tông chuyển thế đă đến.

Nói tới Đạo Thánh của Đấng Christ tức Công Giáo, nếu người không bác ái từ bi, không hề đem xác thịt ḿnh làm con tế vật dâng hiến cho Chí Tôn đặng cầu siêu rỗi, xin tha thứ tội t́nh cho loài người, đó là người đến đem ḷng thương yêu của ḿnh ra làm tiêu chuẩn cho đời bắt chước. V́ cớ nên Công Giáo làm chủ tinh thần một phần lớn nhơn loại là đáng lắm vậy. Nếu như các Ngài c̣n chối căi, dầu cho chỉ muôn đường ngàn nẽo mà các Ngài chối không tùng con đường của nhơn loại đi, là con đường tín ngưỡng Trời và Người đặng d́u dắt nhơn loại trong luật thương yêu và pháp công chánh, đến trước mặt Ṭa Tam Giáo đặng cầu rỗi, tôi dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng. Dầu có cượng lư bao nhiêu các Ngài cũng không chối sự chơn thật đó đặng. Nếu các Ngài muốn chối, tôi xin để bằng cớ hiển nhiên là Đạo Cao Đài đă xuất hiện, Đức Chí Tôn đă đến, chính ḿnh Ngài đến mở Đạo 24 năm trường nay. Ngài đă kư kết với nhơn loại bản ḥa ước thứ ba. Hai ḥa ước kỳ trước nhơn loại đă phản bội, không giữ sở tín của ḿnh v́ cớ cho nên phải thất Đạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong tương tranh, tương sát nhau. V́ ḷng bác ái từ bi Chí Tôn đến kư ḥa ước thứ ba nữa để trong luật điều. Chúng ta thấy các Đấng Thiêng Liêng chỉ tấm tượng Tam Thánh biểu nhơn loại tín ngưỡng; Thiên thượng, Thiên hạ (Dieu et Humanité) về luật có bác ái, pháp có công b́nh, ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn h́nh tướng, Hội Thánh Đạo Cao Đài d́u dẫn tâm lư nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là luật bác ái và vô một nền chơn pháp tối trọng là pháp công b́nh.

Luật pháp của Đạo Cao Đài, ngoài ra luật bác ái và pháp công b́nh, tất cả luật điều khác, đều là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi.

Kỳ tới Bần Đạo sẽ giảng về quyền năng hiệu nghiệm của luật bác ái và pháp công b́nh.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 23-11-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 23-12-1948).


 

61- ĐẠI HÙNG, ĐẠI LỰC, ĐẠI TỪ BI.

 

Tại Đền Thánh, đêm 30 tháng 11 năm Mậu Tư (1948)(*1)

 

Đêm nay Bần Đạo giảng câu triết lư Đại từ, Đại bi. Câu triết lư ấy nguyên bổn của nó do nơi Minh Đường, Minh Sư đă thuyết giáo, chúng ta chẳng biết Minh Đường Minh Sư họ có phương pháp chi mà luyện hay lắm, sự triết lư đă để truyền giáo một cách vững chắc, chúng ta cũng nh́n nhận có nhiều chơn lư đặc sắc, tưởng tượng ra câu thường ngữ khi thuyết pháp họ thuyết pháp nơi câu đại hùng, đại lực, đại từ bi. Thật vậy các người tu, nếu không có đức tin dường đó th́ không có thể ǵ thành Đạo đặng. Triết lư nhà Phật từ tạo thiên lập địa đến giờ đă tạo ra biết bao nhiêu Đấng đă thừa hành mạng lịnh Phật Giáo, đang hành hóa chúng sanh nơi mặt thế gian nầy, nếu không có tánh đức ấy chẳng hề khi nào lập giáo đặng. Đại lực, câu ấy có lẽ để một phương ngôn luận, công lư của một mối đạo ḿnh tu phải có một đức tin hùng dũng mới đặng. Bần Đạo nói, nếu không có tánh đức hùng dũng chẳng hề khi nào thắng khảo đảo đặng. Cả thảy con cái của Đức Chí Tôn đều biết từ ngày mở Đạo đến giờ, một trường khảo đảo kịch liệt, từ ngày Đạo mới phôi thai đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng của con cái Đức Chí Tôn cương quyết lập Đạo cho thành, "cương quyết phải thắng" v́ tổng số cả tinh thần hùng dũng của con cái Đức Chí Tôn, nên ngày nay nền Đạo mới ra thiệt tướng như vậy.

Bần Đạo ngồi quan sát lại, quan sát từ buổi thô sơ triết lư do những điều Đức Chí Tôn t́m chánh lư, Ngài đến cầm cây viết thiêng liêng lựa chọn đem vô Thánh Thể của Ngài, những kẻ ấy thất Đạo, v́ nguyên do buổi trước, Bần Đạo thấy quả quyết và dám chắc như thế, nếu Bần Đạo vạch ra th́ toàn cả con cái của Đức Chí Tôn cũng ngó thấy Bần Đạo, mà những kẻ thất Đạo, không theo dơi bước thiêng liêng của Đức Chí Tôn là do nhút nhát sợ sệt, bạc nhược, sợ cường quyền, sợ luật đối phương mănh liệt, họ chưa có chí hùng dũng quyết tranh đấu quyết thắng nên họ thất đạo, cái thất đạo của họ là thiếu chí hùng dũng, là tại nơi họ nhút nhát, bạc nhược. Tinh thần hùng dũng chẳng phải nơi cửa Đạo mà thôi, ngoài đời cũng vậy, bực vĩ nhân đă tạo thời cải thế từ thượng cổ đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng th́ phải bị làn sóng đời lôi cuốn như một dề bèo trôi giữa ḍng sông kia vậy. Đức Chí Tôn có một quyền năng đặc sắc để nơi địa vị của ḿnh, nhưng họ thiếu chí hùng dũng và cương quyết. Bần Đạo chỉ bằng cớ hiển nhiên là khi Đức Phật Thích Ca c̣n Thái Tử có kẻ nghe Ngài có bổn tánh là một vị Thánh, nên đến xin con mắt của Ngài, Ngài dám móc con mắt cho kẻ ấy, nếu không có chí hùng dũng cương quyết, tưởng chưa có người nào nơi mặt thế gian nầy làm đặng như Ngài, khi Ngài đạt đến địa vị Thiên Phẩm, tức nhiên Ngài ngồi luyện đạo, đương tịnh luyện dưới gốc Bồ Đề, có một vị Vương Hầu đi săn, rượt theo con nai, con nai chạy ngang gần chỗ Ngài ngồi, nó tách qua nơi khác, vị Vương Hầu ấy rượt đến không thấy con nai, chỉ thấy Ngài ngồi dưới gốc Bồ Đề mà thôi. Vị Vương Hầu ấy mới hỏi Ngài có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài suy nghĩ nếu ta chỉ chỗ th́ vị hung thần nầy giết nó, th́ ta có liên quan tới sát sanh, nếu ta nói không thấy th́ ta nói dối tốt hơn là ta làm thinh, Ngài nhứt định làm thinh.

Vị hung thần ấy nổi giận nhiếc mắng Ngài, dầu cho ông thầy tu đi nữa, nhưng ông là một người dân của tôi, ở trong nước của tôi, tức nhiên ông là tôi tớ của tôi. Nếu tôi hỏi tiếng nữa mà ông không trả lời, tôi sẽ chặt cánh tay mặt của ông. Tôi hỏi ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài quyết định không trả lời. Ngài làm thinh không trả lời. Vị hung thần ấy liền chặt rớt cánh tay mặt của Ngài, xong rồi nói: Tôi hỏi tiếng nữa mà ông làm thinh th́ tôi chặt cánh tay trái của ông. Ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài làm thinh, vị hung thần ấy liền chặt cánh tay trái của Ngài, vị hung thần ấy nói: Nếu tôi hỏi lần nữa mà ông không nói, tôi sẽ chặt đầu ông. Ngài vẫn suy nghĩ ta đă chịu chặt hai tay rồi, có lẽ đâu ta sợ chết mà phải nói, nên Ngài cương quyết làm thinh luôn. Vị hung thần ấy liền chặt đầu Ngài, Ngài xuất chơn hồn của Ngài ra ngoài thể phách, kế có một bánh xe lửa, chụp lên đầu Ngài đốt Ngài, v́ quyền Ngọc Hư Cung định án Ngài tự sát. Đă bị chặt hai cánh tay rồi, c̣n đầu mà không nói thấy, tức nhiên ḿnh tự vận, và bánh xe lửa ấy nóng nảy làm sao, không thể nói được khổ năo của Ngài! Cái khổ năo ấy, Ngài mới suy nghĩ: Nếu bánh xe lửa nầy rớt trên đầu ai cũng chịu không nổi. Ngài suy nghĩ, ta đă chịu chặt tay, chặt đầu, bị đốt mà chịu nổi, nên Ngài cầu nguyện để cho Ngài chịu tất cả h́nh phạt ấy. Ngài vừa cầu nguyện, vừa tưởng tượng th́ bánh xe lửa nầy bay đi, nếu Ngài không có tinh thần hùng dũng th́ không thể ǵ làm được.

Đức Thích Ca đă làm được, khi Ngài đạt vị tại thành "Kabikanla" tức là xứ sở quê hương của Ngài.

Quốc Vương trị an thiên hạ nơi ấy là cha của Ngài bắt tội Ngài bỏ nhà đi tu là bất hiếu, nếu làm con như kẻ thường t́nh trở về nói đi t́m Đạo chắc Ngài không nỡ bắt tội, mà ông cha cốt yếu, muốn thấy Phật nên mới làm như vậy mà thôi.

Ngài truyền cho thiên hạ biết, nếu gặp Đức Phật Thích Ca th́ bắt đem về cho Ngài lên án tử h́nh.

Chừng Ngài nghe nói lên án tử h́nh ấy, Đức Thích Ca liền ra chịu án tử h́nh. Ngài nói án tử h́nh ấy để một ḿnh con xin chịu mà thôi. C̣n tín đồ của con xin cha tha thứ để cho nó tu. Nếu không có tinh thần hùng dũng chưa ai làm được như Phật Thích Ca vậy.

Noi một chí khí hùng dũng về tinh thần của Đức Lăo Tử. Từ hồi ở nơi Thơ Viện nhà Châu bị đuổi, lên xe trâu mà về Côn Lôn Sơn, đi th́ có một manh áo, một con trâu ra khỏi dinh nhà Châu. Nếu không có chí hùng dũng chưa dễ ǵ đương làm một vị Đại Quan triều nhà Châu, từ nơi dinh nhà Châu ra đi chỉ có một manh áo với một con trâu mà về Côn Lôn Sơn đặng.

Đức Khổng Phu Tử đă châu lưu lục quốc bất kỳ nơi nào cũng bị thiên hạ biếm nhẻ, chê bai, bắt dọa cho đến khúc trở về nước Lỗ, khi về Ngài c̣n cần cù dạy học tṛ. Ngài làm quan đến bực Tể Tướng và làm quan đến Gián Nghị Đại Phu mà vẫn c̣n cần cù dạy học. Nếu Ngài không có chí hùng dũng th́ không thể ǵ làm như vậy đặng.

Như Đức Chúa Jésus Christ khi Ngài đă chết trên cây Thánh Giá, chúng đóng đinh trên cây Thánh Giá mà quân vô đạo đứng dưới cây Thánh Giá kêu Ngài nhiếc mắng Ngài, nói Ngài là con Đức Chúa Trời quyền năng vô biên cứu cả thiên hạ đặng, đâu Người cứu thử Người trước coi, Người làm sao xuống đặng bốn cây đinh đóng hai tay hai chân của Người đó coi. Ngài chỉ ngó lên Trời cầu nguyện: Thưa Cha, xin Cha tha tội t́nh cho chúng nó, v́ chúng nó chưa biết lỗi lầm của chúng nó. Nếu Chúa không có chí hùng dũng th́ chưa có tinh thần ấy.

Mohamed lập ra Đạo Hồi Hồi bị xô đuổi, bị bắt nhốt khám trốn chui, trốn nhủi, mà không buổi nào thất chí.

Noi một Đấng mà chúng ta thường biết là Huệ Năng, khi thầy đi tu, đi dọc đường thấy một người đàn bà lơa thể nằm chết ở lề đường.

Kẻ tầm thường có lẽ nhắm mắt đi ngang qua chỗ đó, v́ theo Đạo Giáo nên Ngài lật một chiếc giày ra đậy chỗ lơa thể rồi Ngài mới đi. Nếu Ngài không có can đảm và hùng dũng chưa chắc Ngài đă làm đặng.

Giờ phút nầy chúng ta chỉ một người làm cho thiên hạ đảo lộn biến thành một trường ngôn luận cả toàn thể hoàn cầu là Galania Davis dám đến giữa Hội Vạn Quốc hỏi rằng: Ḥa b́nh thế giới, các Ngài dám bảo đảm không? Tôi cốt yếu là một công dân đệ nhứt của quốc tế đến hỏi các Ngài dám bảo đảm ḥa b́nh thế giới không? Nếu không có chí hùng dũng th́ anh Galania Davis chưa hề làm được.

C̣n nhiều phương nữa nếu không có chí hùng dũng, có đại lực th́ chưa làm được. Hùng dũng được, tức nhiên theo lẽ phải, có hùng có lực phải từ bi. Nếu muốn vào hàng Thánh đức phải đi ngang qua cửa từ bi. Hễ Đạo có hành tàng th́ lấy từ bi làm căn bản, c̣n hung tàn th́ đi theo cái hung, tức báo đời chớ không phải cứu đời.

Đức Chúa Jésus Christ cứu đời có nhiều đại từ, đại bi, đại lực.

Các nhà Đạo Giáo đi đến cửa mà vô không đặng th́ trở qua Tả Đạo Bàn Môn, c̣n đi thuận chiều th́ là đại từ bi, qua được tức nhiên theo chiều của Đức Chí Tôn mà đôi khi c̣n đi qua thiên lư, thiên số, và thiên tánh tức nhiên là chơn tánh, tức nhiên là chơn đạo. Nếu chơn đạo không biết giữ th́ đại hùng đại lực sẽ biến thành đại ác Tả Đạo Bàn Môn.

Đương nhiên bây giờ Hitler, Mussolini, Lénine và Staline nó do đại hùng đại lực đại ác chớ không có đại từ bi th́ nó nghịch chiều đó vậy.

Kết luận, cả con cái Chí Tôn thấy một trường hợp nào bất chánh th́ quan sát cái trạng thái của nền Chánh Giáo Đức Chí Tôn đă cho hay trước, nó có đại hùng đại lực rồi nó phải đi trong con đường đại từ bi, coi chừng có đường nào đi qua đại ác của nó, cả thảy đều đứng lên làm một bức tường thiên nhiên gây thành một bức tường huyền diệu của Đức Chí Tôn đặng cản ngăn che cho Ngài, cái nền Tôn Giáo của Ngài đừng cho đi vào đường đại ác.

Tương lai thay đổi, phải mở con mắt Thiêng Liêng, lấy tinh thần toàn thể, dầu Chức Sắc Thiên Phong hay Tín Đồ cũng vậy, con mắt phải mở. Con mắt ấy là Huệ Nhăn phải mở cho rơ ràng minh mẫn đặng coi chừng thay đổi nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn vĩnh cửu trường tồn, đừng để ngày sau đổ sụp mà ân hận.

 

Phụ ghi:
(*1) Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Tháng 11 âm lịch năm Mậu Tư (tháng thiếu)  không có ngày 30. Ngày âl. 29-11-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 29-12-1948).


 

62- LUẬT QUYỀN.

 

Tại Đền Thánh, thời Tư đêm rằm tháng chạp năm Mậu Tư (1949)

 

Kỳ thuyết pháp trước, Bần Đạo đă có để một dấu hỏi: "Đạo Cao Đài có thế đem hạnh phúc cho nhơn loại, tạo ḥa b́nh, làm cho đại đồng thiên hạ đặng chăng?".

Đă đặt dấu hỏi, tức nhiên phải trả lời.

Chúng ta chẳng nên mờ ám chỉ biết tin nơi Đức Chí Tôn mà thôi, mà phải biết Ngài đến để tạo nền Tôn Giáo cốt yếu là đến kư ḥa ước với nhơn sanh, tạo hạnh phúc cho nhơn sanh và làm cho thiên hạ hưởng đặng thái b́nh nơi mặt địa cầu 68 nầy, tức nhiên chúng ta dám quả quyết và để đức tin chắc chắn rằng thế nào cũng thành tựu, nhứt là có quyết đoán của Anh Cả Thiêng Liêng chúng ta là Đức Lư Giáo Tông đă nói:

Đức tin một khối tượng nên h́nh,
Đă hiệp Vạn Linh với Chí Linh.

Nghĩa là Đạo Cao Đài đă thành, nhưng từ từ đi lên cho đến cái địa cảnh vô đối của nó.

Ta chán biết Chí Tôn đến kư ḥa ước của nhơn sanh, nhứt là các liệt cường kư với nhau, khoản nầy, khoản nọ, khoản kia, đủ thứ, kư không biết mấy khoản. Với Đức Chí Tôn chỉ có 2 khoản thôi.

Luật: Thương yêu, Ngài định luật cho chúng ta là thương yêu, không phải thương yêu nhơn loại mà thôi, mà phải thương yêu toàn cả Vạn Linh nữa.

C̣n Quyền: Ngài chỉ định là quyền công chánh.

Từ thử, ta chưa thấy cái ḥa ước nào đơn sơ như thế, mà nó có oai quyền làm sao? Không thế ǵ thật hiện đặng, dầu cho tận thế, loài người cũng chưa thật hiện ra đặng, chúng ta đă hiểu và tin rằng thế nào nó cũng thành, nhưng thời gian ta không quyết định, ta chỉ lấy lương tri, tức là lấy trí tri t́m hiểu chơn tướng Đạo Cao Đài làm thế nào mà đem hạnh phúc cho nhơn loại hưởng được, và tạo ḥa b́nh cho thiên hạ đại đồng thế giới. Chúng ta duy lấy trí tri t́m hiểu thôi.

Chúng ta thấy quyền năng của luật thương yêu thế nào? Tấn tuồng đời hiển hiện từ khi có loài người đến giờ. Nếu không nhờ sức mạnh mẽ vô biên của luật thương yêu ấy th́ Đức Phật Thích Ca chưa có lập giáo thành tướng được. Khi Ngài đến Résu, luyện pháp tuyệt thực, có người theo Ngài, bốn (4) người không phải theo làm môn đệ, mà theo đặng coi Phật có đạt pháp đặng chăng. Đến chừng Ngài từ trên ngọn núi tuột xuống núi, Ngài ăn uống lại, mấy người đợi ở chân núi thấy như vậy, cho rằng Ngài đă qui phàm rồi, không có đạt pháp chi hết, 4 người chê bỏ đi. Tới chừng Ngài đi thuyết giáo, Ngài t́m 4 người ấy, bốn người biết Ngài là chơn thật mới theo. Trong bốn người mà chỉ có hai (2) người trọng yếu hơn hết, rồi đến ngày cuối cùng c̣n có một người đạt đặng Phật Giáo thôi.

Đạo Tiên, Đức Lăo Tử có một người Môn đệ và một đứa ở là Từ Giáp biết Đạo của Ngài, duy có ông Doăn Hĩ theo Đức Lăo Tử, đạt pháp truyền giáo mà Đạo Tiên c̣n tồn tại đến ngày nay.

Đạo Khổng Phu Tử, tuy vẫn c̣n có Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị Hiền, mà cả thảy Đức Khổng Phu Tử, chưa chắc người nào đạt Đạo đặng. Duy có một người mà thôi, là Thầy Sâm. Bằng cớ là buổi chung qui Ngài kêu Sâm nói: "Sâm hồ ngô đạo, nhứt dĩ quán chi" (Đạo ta chỉ một người biết mà thôi).

Đức Chúa Jésus Christ có nửa người môn đệ thôi, bởi ông Pierre chối Chúa ba lần, đến khi ăn năn khóc lóc với bà Maria mà xưng tội ḿnh.

Mahomet có một người môn đệ phụ nữ mà Đạo Hồi Hồi đă thành vậy.

Chúng ta suy đoán chỉ thấy có thương yêu. Duy có một người thương hoặc nửa người thương mà các vị Giáo Chủ đă lập thành Tôn Giáo tại mặt thế nầy.

Chúng ta xét lại thấy Đạo Cao Đài c̣n hạnh phúc nhiều hơn các Tôn Giáo khác, nếu nhận quả quyết th́ được có ba người, mà ba người tức nhiều hơn thiên hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn Giáo Đức Chí Tôn đă hiện tượng, do quyền năng vô đối của Ngài mà đạt được, mà trong các vị thừa mạng lịnh của Ngài đă vẽ nên h́nh, nắn nên tướng của nó. Bần Đạo kiếu lỗi toàn con cái của Ngài, không phải là tự kiêu hay tự đắc, chính tay Bần Đạo có một phần khá lắm.V́ cớ Bần Đạo rủ toàn thể chúng ta dùng phép "Hồi quang phản chiếu" đặng định tướng diện của ḿnh, cốt yếu là một phần tử trong nền Chơn Giáo, hễ ḿnh định được chơn tướng của ḿnh, tổng số các chơn tướng đó làm chơn tướng của Đạo.

Bần Đạo thấy Đạo Cao Đài được nên h́nh trạng trọn vẹn, tức là h́nh tướng thương yêu vô tận, nó nên h́nh có nét đẹp thiên nhiên là nhờ vẽ với cây viết thương yêu. Trước Đức Chí Tôn đến cầm cây viết thương yêu mà viết nét Thiêng Liêng cho cả Thánh Thể của Ngài đồ theo nét thương yêu ấy đặng tạo nên h́nh trạng, thành tướng một khối thương yêu. Ta không có mơ mộng và không lường gạt tâm lư nhơn sanh, trước mắt mọi người đều thấy, hỏi do quyền năng nào tạo thành quyền lực ngày nay? Quyền Đạo ngày nay do luật thương yêu mà thành tướng, vậy đă do luật thương yêu thành tướng th́ không có quyền năng nào tàn phá cho đặng. Nó có sợ chăng là luật thù hận. May thay cả lực lượng thù hận cũng không xung đột được, bởi có bàn tay Thiêng Liêng gạt thù hận ra khỏi rồi.

Nó nên h́nh bởi sự thương yêu, trưởng thành trong sự thương yêu, bởi h́nh chất của thương yêu, hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng kiện, nó sẽ làm chúa cả thù hận, và quyền năng thù hận không hề xâm lấn nó được. Nói quả quyết Bần Đạo đă đánh tan thù hận ra, khi các phe đảng dùng quyền lực chiếm ngôi vị của Chí Tôn để tại mặt thế nầy, Bần Đạo đă can đảm dùng quyền của Bần Đạo đánh ngă ra hết, đặng bảo trọng h́nh tướng thiêng liêng của Đạo. Bần Đạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần Đạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn h́nh thể của Chí Tôn cho trọn thương yêu. Bần Đạo dùng can đảm gánh lấy cả thù hận của thiên hạ mà bảo tồn khối thương yêu của Chí Tôn vô đối, không cho hoen ố, nhơ bợn. Tại sao mà Bần Đạo dám thí ḿnh gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó? Bởi biết nó là chúa cả h́nh ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là thầy thiên hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bỉ nhơ nhớp, th́ không thế ǵ làm thầy thiên hạ đặng.

Các Chi Phái buổi nọ dùng cường quyền mà đoạt vị, không lẽ Bần Đạo là Hộ Pháp, nắm giữ chơn truyền trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước, để lưu lại cho nền Chơn Giáo của Chí Tôn sao? May thay, quyền ấy chưa xung đột được Chánh Giáo của Chí Tôn: Nó đă bại trận, bởi Thánh Thể của Ngài có người cầm luật pháp oai nghiêm, tức là cầm cây HUỆ KIẾM trong tay đặng ǵn giữ nền Tôn Giáo nên h́nh được, nó nên được tức tạo cho thiên hạ được. Nó đă tạo oai quyền của nó thành tướng đặng th́ tạo quyền cho nhơn sanh nơi mặt địa cầu nầy về tương lai đặng.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 15-12-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 13-01-1949).


 

63- T̀M H̉A B̀NH VÀ HẠNH PHÚC.

 

Tại Đền Thánh, đêm 23 tháng chạp năm Mậu Tư (1949)

 

Đêm nay là thời chót của đêm cúng Chung Niên năm Mậu Tư, chúng ta lấy ngày 23 là ngày Hiệp Thiên đó vậy.

Ngày nay Bần Đạo không thuyết đạo mà thuyết thời cuộc đặng quan sát cả năm của chúng ta, ngày nay đến bước nào, nhứt là về Quốc Gia Việt Nam.

Nghe được truyền thanh dường như Pháp đă chịu lời yêu cầu của Đức Bảo Đại trả độc lập và thống nhất của nước Việt Nam lại cho quốc dân Việt Nam, có lẽ Bảo Đại sẽ hồi loan. Về sở vọng của quốc dân Việt Nam đă trao nơi tay của Ngài để buộc Ngài đ̣i hỏi, có lẽ Ngài sẽ lấy lại được, làm cho thỏa vọng quốc dân Việt Nam, liên kết trong 80 năm và ước vọng của quốc dân Việt Nam đang thỏa măn vậy.

Ta t́m lụng lại coi thế ǵ nó giúp cho tương lai kiến thiết quốc gia Việt Nam đắc lực hay không đắc lực. Chúng ta cứ quan sát xem hành tàng định cuộc thế, bàn thử tương lai của chúng ta, có một điều Bần Đạo tưởng rất cần rất bổ ích, cái khuôn luật tạo đoan đă gọi rằng vạn vật tối linh tức nhiên mạng sanh trọng hệ nơi mặt thế gian nầy, bởi v́ mạng sanh là thể của vạn năng tối linh thành tướng, bởi vậy cho nên có một khuôn luật đặc biệt. Nơi ấy làm như đă vô khuôn luật thiên nhiên để vay trả. Chúng ta thấy năm nào lúc mưa gió dữ dội, th́ loài kiến nó làm ổ trên cây nó tha trứng gát lên nhành cây cao, nó có khiếu linh, hễ lụt th́ hang ổ hư hết, dường như tâm linh của nó, bảo sanh của nó cho hay trước đặng nó t́m phương thế tự vệ mạng sanh của nó. Bần Đạo ngó thấy nữa, tỷ như loài ong mà ngày mai ổ nó sẽ bị phá, bị đốt, bị lấy mật, th́ nó hay trước, đêm đó hai phần ong đi trước.

Chúng ta c̣n ngó thấy nữa, khi chúng ta cỡi con ngựa đi trong đường vắng, thảng như có cọp, hay mănh thú ǵ đón đàng bắt người cỡi và nó, khi đi gần tới chỗ đó mà người cỡi hiểu biết th́ tránh được v́ nó không chịu đi hay nó đi qua đường khác, v́ nó biết tánh mạng của nó đi tới khuôn luật đó. Ta đây cũng vậy, khi nào ta có tai nạn ǵ hại đến mạng sanh của ta, dường tâm linh của ta cho biết trước, điều ấy có hiển nhiên của mỗi người, được thấu đáo đến cái nguy hại đến mỗi cá nhân cũng vậy.

Bần Đạo thường nói lấy nhỏ mà đoán lớn, cả Vạn quốc nhơn loại trên hoàn cầu lúc nầy cũng vậy, dường như tâm linh của họ cho biết trước cái nạn nguy biến tự diệt nơi mặt địa cầu nầy. Nếu họ chia rẽ tương tàn, tương sát với nhau, không phải buổi nầy mà thôi, mà về tương lai nữa.

Khi chưa có trận giặc thứ nhất họ đă lập Vạn Quốc liên minh để bảo vệ ḥa b́nh thiên hạ.

Hỏi cái hung tàn bạo ngược của đời có nghĩa lư ǵ không? Nhưng lấy tâm lư công chánh định coi chúng ta ngó thấy, nhờ có Hội Vạn Quốc liên minh mà ḥa b́nh mới c̣n duy tŕ đến ngày nay. Nếu không có Hội Vạn Quốc liên minh bảo vệ ḥa b́nh th́ trận giặc thứ ba khởi chiến trước rồi. Bây giờ dường như thiên hạ đă ngó thấy cái tai nạn, nhơn loại ngó thấy h́nh tướng, hiện h́nh xuất tướng mà thôi.

Chúng ta ngó thấy cả toàn cầu Vạn Quốc liên minh dầu có đổi tên nhưng cái tướng của nó vẫn c̣n là nhỏ, cơ quan ấy là cơ quan cứu thế. Nếu không có nó th́ nhơn loại đă đi đến con đường tự diệt, không c̣n quyền năng nào ngăn cản bước nguy hiểm của nó được.

V́ cớ chúng ta thấy, nó xuất hiện trước cũng như vị Thánh Gandhi chống cây gậy mặc một tấm chăn đi khắp cùng thiên hạ kêu gọi bác ái từ bi đặng định tâm thiên hạ; lấy đạo đức làm căn bản đặng cứu văn cái nạn tương tàn, tương sát của nhơn loại, bảo vệ hai chữ ḥa b́nh trong khuôn khổ đạo đức.

Ngài đă làm bên xứ Ấn Độ, tôi tưởng sự làm của Ngài với sự làm của Đức Chí Tôn đi đôi với nhau. Đức Chí Tôn không trước Ngài, mà Ngài cũng không trước Chí Tôn, ngoài ra cũng không phải ảnh hưởng cho vị Thánh Gandhi.

T́m hiểu nhơn loại để tự giác ḿnh, c̣n nhiều bậc trí thức cao siêu hơn nhơn loại, cầm vận mạng các quốc gia trù tính kế hoạch đặng bảo vệ ḥa b́nh và bảo tồn sanh mạng cho loài người tức là bảo tồn sanh mạng cho nhơn loại.

Chúng (ta?)(*1) đă ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc t́m đủ phương chước để bảo vệ ḥa b́nh mà họ c̣n thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy nạn phân chia tâm lư nhơn loại hiện giờ làm ǵ? Chúng ta có ba mănh lực: Mănh lực tư bản, mănh lực cộng sản và mănh lực đạo đức.

Cộng sản nói rằng: Của sở hữu nơi mặt địa cầu đủ nuôi nhơn loại trên mặt địa cầu nầy. Nhơn loại trên mặt địa cầu nầy có ít nữa 2.500 triệu người. Của cải trên mặt địa cầu nầy có thể nuôi họ đặng. Nhưng của cải phải chia đều với nhau, không ai hơn, không ai kém.

Nếu muốn chia phải làm, phải có sản xuất mới chia được. Luật chia đă đành không chánh thật, mà nó không làm th́ của đâu mà chia, người làm người không th́ chia sao được. Giựt ăn chớ chia cái ǵ. Cái thuyết cao siêu lắm mà hành tàng th́ trái hẳn với chơn lư.

Một đàng tư bản nói làm cho nhiều, làm dư giă, để của cho nhiều tức thiên hạ sống hạnh phúc, mà nếu có luật buộc thiên hạ chia của, mà kẻ không làm đặng chia của, ở không mà đặng ăn là bất công, giờ toàn cả thiên hạ phải làm, làm cho qua sở vọng của loài người th́ sống vô cùng hạnh phúc. Có một điều làm ra rồi người làm coi giữ quyền lợi của ḿnh không cho thiên hạ hưởng, thành ra thuyết hay mà sự làm trái hẳn chơn lư nữa. Hai thuyết ấy tương đương với nhau, chiến đấu một cách kịch liệt thành ra hai khối Nga và Mỹ.

Bây giờ c̣n thuyết đạo đức có hơi khác hơn hai thuyết kia, Bần Đạo tưởng không cần để của cho nhiều mà làm giàu, v́ nghĩa lư của Đạo, ḿnh biết khổ với nhau, biết thiếu thốn cùng nhau, hoạn nạn có nhau, ḿnh biết tùy thế tùy thời, dầu không có của mà ǵn luật thương yêu, bảo vệ nhau tuy nghèo mà nó c̣n giữ ǵn đặng cho nhau. Của cải nhiều không bao giờ bảo vệ đặng. Duy có hiệp cả nhơn loại, thông tri cả tâm lư tinh thần loài người như một gia đ́nh kia. Nhơn loại ngày giờ nào mà biết yêu ái nhau, biết bảo vệ nhau như trong gia đ́nh của các Ngài, đó mới gọi là hạnh phúc; làm việc có kẻ mạnh người yếu. Kẻ bịnh, người già không thể làm hơn kẻ tráng kiện được. Người bạc nhược không thể để cho phận sự nặng nề trong đó được. Nếu suy ra biết bao nhiêu sự bất công. Duy có t́nh thương yêu nồng nàn mới tạo hạnh phúc chung mà thôi. Tạo hạnh phúc chung cho nhau về mặt tinh thần hay mặt xác thịt cũng thế, con người thỏa măn đặng về phương sống của ḿnh với tâm t́nh thương yêu th́ mới hạnh phúc, c̣n ngoài ra dám chắc mạng sống con người không khi nào hoàn toàn hạnh phúc. Bởi v́ thảng như ḿnh đương mạnh đây nhưng đi đâu đó rủi đạp nhằm cái gai cũng đủ đau đớn rồi, đương nhiên như thế mà phải chịu cảnh ăn không ngồi rồi cũng là mất hạnh phúc kiếp sống, con người ta không khi nào hưởng trọn hạnh phúc, duy có đau khổ thêm th́ có chớ không có hạnh phúc ǵ đâu mà mơ vọng.

Hỏi thử trong kiếp sống của chúng ta có giờ phút nào có hạnh phúc chăng? T́m thử trong kiếp sống kiếm lụng lại coi, hạnh phúc bao nhiêu? Rồi xem tổng số lại coi được cái ǵ có hạnh phúc, coi đó được hạnh phúc hay chăng? Ôi! Chỉ thấy cảnh khổ, cũng như ra ngoài băi sa mạc kia muốn có giọt nước Cam Lồ rải xuống trong khi nắng hạ, vậy th́ t́m hạnh phúc cho nhơn loại không khác. Nếu có hạnh phúc hay chăng th́ như Bần Đạo đă nói, làm người phải biết yêu ái với nhau, biết tôn trọng nhau, biết bảo vệ sự sống c̣n cho nhau ấy mới là hạnh phúc. Ngoài ra th́ cũng như câu cá trên ngọn cây không hạnh phúc ǵ hết.

 

Phụ ghi:
Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày
âl. 23-12-Mậu Tư nhằm ngày (dl. 21-01-1949).
(*1) Nơi đoạn thứ13: Chúng (ta?) đă ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc t́m đủ phương chước để bảo vệ ḥa b́nh mà họ c̣n thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy ... ... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rơ nghĩa hơn: Chúng ta đă ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc t́m đủ phương chước để bảo vệ ḥa b́nh mà họ c̣n thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy ... ... ...

 

CHUNG


 

 

 

 

 

 

 

 

 


LỜI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
 Năm Mậu Tư (1948)

 Do Ban Đạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Quư Sửu (1973)
Kiểm Duyệt Kinh Sách số: 120/KD ngày 12-10-1970