B Chính Trị Đảng Cộng Sản Và Nghị Quyết 36

 

Nguyễn  Châu

 

Ngày 26-3-2004, Bộ Chính trị Cộng sản Việt Nam đă ra Nghị quyết số 36-NQ/T.Ư về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Đảng chỉ thị các cấp chính quyền và đoàn thể nhân dân tổ chức “ phổ biến rộng răi nghị quyết này đến cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong nước và đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

 

Tóm Lược Và Phân Tích

 Nghị Quyết 36 Của Bộ Chính Trị Cộng sản Việt Nam

 

Nội dung: “ Nghị quyết về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài

Nghị quyết 36 gồm 3 phần :

 

I.- T́nh h́nh và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua.

Bộ Chính trị đưa ra nhận định về nười Việt nước ngoài và kiểm điểm, phê phán sự thiếu sót của các chủ trương và chính sách của nhà Nước, cuả cán bộ chức năng chưa lo lắng đầy đủ cho Việt kiều, chưa bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài, chưa khuyến khích được Việt kiều đem nhiều tiền của trí tuệ về đóng góp cho Đảng xây dựng đất nước, chưa phát hiện, bồi dưỡng những nhân tố tích cực, việc khen thưởng, động viên những người có thành tích ít được chú trọng.

 

1-     Đảng Ước lượng sĩ số người Việt ở nước ngoài là 2 triệu 7, sống tại 90 nước và vùng lănh thổ. Phân bố như sau:

      a/ Hơn 80% tại các nước công nghiệp phát triển (NQ không nói rơ những nước nào) đă ḥa nhập và càng ngày càng ổn định cuộc sống, có địa vị trong đời sống xă hội, kinh tế và chính trị, có ảnh hưởng đến Hành pháp và Lập pháp của các quốc gia định cư về chính sách đối với Cộng sản Việt Nam.(NQ không dám nói thẳng đây là các quốc gia Âu, Mỹ, Úc mà 80% người Việt nói trên đă trở thành thường trú nhân, công dân có đủ mọi quyền lợi như dân bản xứ)

 

      b/ Khoảng 20% c̣n lại đang h́nh thành những cộng đồng trên một số địa bàn mới: “Bên cạnh đó, trong những năm qua hàng trăm ngh́n người Việt Nam đă ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đ́nh, h́nh thành các cộng đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới.” (NQ36 không dám nói thẳng đến số người Việt sống bất hợp pháp tại Nga và Đông Âu cũ như Đức, BaLan, Tiệp Khắc, Rumania, Hungaria, Nam Hàn, Mă Lai, Indonesia, Đài Loan... Số hàng trăm ngàn người Việt này đang ở trong t́nh trạng mà NQ36 chỉ rơ như sau: Tuy nhiên, người Việt Nam ở một số nước c̣n khó khăn trong việc ổn định cuộc sống, chưa được hưởng quy chế rơ ràng, thậm chí ở một số nơi c̣n bị kỳ thị” Hàng chục năm đă trôi qua, nay nhân việc muốn ve văn Cộng Đồng Người Việt Tự Do giàu có để ḅn rút đô la nên Đảng mới lưu tâm đến lớp người do đảng đưa đi lao động trừ nợ, rồi sau biến cố Đông Âu và sự sụp đổ của Cộng sản Liên Xô vĩ đại, họ trở thành dân cư trú bất hợp pháp v́ “dở ở, dở về” do Nhà Nước không muốn nhận và bản thân họ th́ muốn ở lại để có chút tự do, nhưng lại không đủ tư cách để tị nạn cộng sản.)

 

       c/ Ghi nhận tiềm lực kinh tế, tŕnh độ trí tuệ, chuyên môn cao cấp, địa vị quan trọng của người Việt nước ngoài (ám chỉ Cộng Đồng Người Việt  Tự Do tại các quốc gia tự do); ca ngợi tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, hướng về cội nguồn, ḍng tộc, gắn bó với gia đ́nh, quê hương. NQ36 nói là: “Đông đảo bà con hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước, mong muốn đất nước cường thịnh, sánh vai với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; nhiều người đă về thăm gia đ́nh, quê hương, tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, nhân đạo, từ thiện... T́nh h́nh trên là xu thế chủ yếu trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.” (Các nhà b́nh luận nhận thấy Bộ Chính trị Cộng sản Việt Nam đang hoang tưởng và dối gạt dư luận quốc nội! Theo cưụ đại tá Cộng sản Bùi Tín: “...29 năm nay những người lănh đạo (Cộng sản) lại không làm ǵ để ḥa hợp ḥa giải cả, họ vẫn coi những người Việt ở hải ngoại chỉ là con ḅ sữa để vắt sữa và vẫn khinh thị như qua cái nghị quyết 36 vừa qua. Đây là cái nghị quyết kêu gọi người Việt ở nước ngoài phải quỳ xuống mà đầu hàng một lần nữa th́ mới cho về nước, mới hợp tác... chứ không phải đối xử với 2 triệu đồng bào ở nước ngoài một cách b́nh đẳng, một cách tôn trọng về mặt chính trị và dang dự, về tư thế của một người công dân” – Trả lời phỏng vấn của Việt Long đài RFA, 30-4-2004) Ông Bùi Tín, Vũ Thu Hiên, Nguyễn Minh Cần nằm trong cái mà NQ36 gọi là: “Nhiều người đă có những đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.” (ư muốn “chiêu hồi các phần tử đă ly khai Đảng Cộng sản lưu vong ớ nước ngoài, NQ không nói tại sao họ có công như thế mà phải bỏ nước ra đi?)

      Chính sách “đại đoàn kết dân tộc” của Đảng và nhà Nước Cộng sản là ǵ? Là bắt giam các linh mục, các Ḥa thượng, tu sĩ và tăng sĩ, là đàn áp Phật giáo Ḥa Hảo, Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bao vây chùa chiến ở Huế, là đàn áp dă man đồng bào Tây Nguyên theo đạo tin lành, là kết án và giam cầm Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Phạm Hồng Sơn, Lê chí quang, Nguyễn Vũ B́nh, hại độc linh mục Nguyễn Văn Lư trong tù, là đàn áp khốc liệt giới làm báo và những người phân phát các thông điệp qua e-mail...! Sao Đảng không đoàn kết với những đảng viên trí thức và trẻ tuổi đang lên tiếng đ̣i tự do, dân chủ cho 76 triệu dân trong nước trước rồi với tay ra nước ngoài. Đảng nên biết rằng chiêu bài “Đại đoàn kết dân tộc” ngày nay không c̣n lừa được ai nữa, nhất là đối với Người Việt ở những quốc gia tự do, vậy th́ dối nữa để mà chi? “V́ có dối cũng không lừa được nữa”!

 

       d/ NQ36 lên án người Việt nước ngoài mang thành kiến, mặc cảm nên chưa hiểu đúng t́nh h́nh đất nước, đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước: “Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp về thăm đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về t́nh h́nh đất nước. Một số ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với Việt Nam”. (Bộ chính trị đă quy kết các tổ chức chống cộng, đ̣i tự do, dân chủ, nhân quyền cho dân tộc Việt Nam là “đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước”. Đây là một gán ghép có mục đích chạy trốn thực tế: Người Việt hải ngoại không bao giờ chống lại đất nước hoặc không thương yêu dân tộc, bằng chứng là họ đă gửi về cho thân nhân hằng năm hơn 3 tỷ đô la mỹ tiền mặt và quyên góp cứu trợ thiên tai, bệnh tật...hàng trăm triệu đô la khác. Người Việt hải ngoại chỉ chống tập đoàn Cộng sản đang thống trị đất nước một cách độc tài và ngu xuẩn. Người Việt bỏ nước ra đi từ sau 30-4-1975 không phải là “trốn chạy tổ quốc” như một nhà văn “viết mướn ăn tiền” của trung tâm W. Joiner đă nói, mà là trốn chạy chế độ Cộng sản phi nhân.

NQ 36 nói đến: Thành tựu to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xă hội giữ vững sự ổn định chính trị - xă hội và không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của đất nước...Phải chăng đây là những khách sạn cao tầng sang trọng, những nhà hàng, những khu ăn chơi với hàng trăm thứ “ôm” (từ bia, cà phê... đến tắm...) để du khách ngoại quốc đến hưởng thụ và để nhà nước tiến hành kỹ nghệ “Sex-Tourism” mặc cho xă hội băng hoại, dân tộc nhục nhằn! Vị thế quốc tế của Việt Nam Cộng sản đă không ngừng nâng cao trên các nấc thang “vi phạm nhân quyền, tham nhũng, bán phụ nữ qua Đài Loan, bán bé gái 8 đến 15 tuổi qua Căm-bốt làm điếm, về đàn áp báo chí, Việt Nam được tổ chức Freedom House xếp hạng thứ 179, đồng hạng với Lào và Rwanda, nghĩa là gần đứng nhất thế giới chỉ kém Cuba và Bắc Hàn. (Theo “Freedom of the Press 2004: A Global Survey of Media Independence” nhân ngày Tự do Báo chí Thế giới 3 tháng 5-2004). Một thành tựu to lớn nữa của Cộng sản Việt Nam hiện nay là “Xuất khẩu Lao động” với giá rẻ nhất thế giới, bảo đảm công nhân Việt Nam xuất khẩu sẽ làm việc như nô lệ của thế kỷ 17. (Nguyễn Văn Huy, báo Thông Luận, tháng 2-2004: “Xuất Khẩu Lao Động”)

 

       e/ NQ 36 khiển trách người Việt hải ngoại: “Tính liên kết cộng đồng, sự gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng chưa cao. C̣n thiếu các biện pháp duy tŕ, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; việc giữ ǵn tiếng Việt và bản sắc dân tộc trong thế hệ trẻ c̣n khó khăn. Nhu cầu giao lưu văn hóa giữa cộng đồng với đất nước, giữ ǵn và phát triển tiếng Việt trong cộng đồng là rất lớn và trở nên bức thiết song chưa được đáp ứng. Sự đóng góp của bà con vào công cuộc xây dựng đất nước, nhất là về tri thức, chưa tương xứng với tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.”

Đây là thái độ trịch thượng nhưng ngu muội. Bộ chính trị Cộng sản chẳng có “kiến thức thực địa” nào về Cộng Đồng Người Việt hải ngoại cả, chỉ nghe bọn nằm vùng báo cáo láo, để lập công.

     Hằng năm Cộng Đồng hải ngoại đă tổ chức hàng chục lễ hội truyền thống dân tộc, nào là diễn hành Mừng Xuân, Hội Tết, nào là Kỷ niệm Đống Đa, Giỗ Tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Lê Lai, Quang Trung...vân vân. Về Việt Ngữ: rất nhiều trường và lớp Việt Ngữ được mở ra để dạy tiếng Việt cho thế hệ sinh ra tại hải ngoại (ví dụ: tại San José, Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang tầm cỡ tới trên 30 lớp các cấp; Nam California c̣n có Viện Việt Học... nói chung khắp nơi có Cộng Đồng Người Việt  đều có trung tâm Việt Ngữ...) Dĩ nhiên là có khó khăn đối với giới trẻ do sự học chung trường với người địa phương và dùng ngôn ngữ chính là Anh ngữ, tiếng Việt thành ngôn ngữ 2. Đảng Cộng sản nói “Nhu cầu giao lưu văn hóa giữa cộng đồng với đất nước...chưa được đáp ứng” Đáp ứng như thế nào? Văn hóa phẩm, báo chí, ca sĩ, văn công từ Việt Nam Cộng sản được du nhập tự do vào Mỹ, Úc và Âu Châu, nhưng Nhà Nước Cộng sản Việt Nam không cho sách, báo Việt Nam tử hải ngoại gủi về trong nước, dù chỉ là gửi cho thân nhân đọc. Một cuốn Video, quay cảnh Việt Nam, khi đem ra nước ngoài phải qua “kiểm duyệt văn hóa” mất khoảng ba ngày hoặc một hai tuần. Như vậy chỉ có lưu mà không có giao v́ chỉ có một chiều từ nước Cộng sản ra nước từ do, không có ngược lại! NQ 36 than trách: Sự đóng góp của bà con vào công cuộc xây dựng đất nước, nhất là về tri thức, chưa tương xứng với tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.” Đúng là ḷng tham không đáy.

      Thử hỏi: Cộng sản Việt Nam lấy tư cách ǵ để đ̣i hỏi sự đóng góp của những người mà Đảng và Nhà Nước từng gọi là: “Đó chỉ là những phần tử bất măn của chế độ cũ, những kẻ có nợ máu với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động...” (tuyên bố của Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao Cộng sản Hà Nội); “....những người vượt biển ra nước ngoài là bọn người phản quốc, chống phá cách mạng, “là những thành phần rác rưởi, lưu manh, những kẻ phản động, phản quốc, bỏ nước ra đi theo ngụy”. Chính Bộ trưởng Y-tế Nguyễn Thượng Nhân đă phát biểu là “nên treo cổ hết những kẻ phản động ấy”!

      Bộ chính trị thật trơ trẽn, không thấy nhục, khi kêu gọi “thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động, thành phần rác rưởi, lưu manh, bỏ nước ra đi theo ngụy” đóng góp xây dựng đất nước, mà c̣n chê quá ít so với tiềm năng! Đúng là:

 

“Vượt biên mang tiếng Việt gian

Vài năm đến Mỹ chuyển sang Việt kiều

Việt Gian, Việt Cộng, Việt kiều

Trong ba Việt ấy Đảng yêu Việt nào?

Việt Gian, Việt cộng ít hào

Đô la rủng rỉnh, Đảng yêu Việt kiều!”

     

2-      Đảng và Nhà Nước nhận Cộng Đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận của cộng đồng dân tộc và đă đề ra nhiều chủ trương, chính sách để nâng đỡ và phục vụ:

“-Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đă đề ra nhiều chủ trương, chính sách rộng mở và biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về thăm đất nước, người thân, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học - công nghệ, hoạt động văn hóa - nghệ thuật” Đây là hành động “ thấy sang bắt quàng làm họ”, một hành vi “ép uổng” trâng tráo đối với Người Việt  hải ngoại. Làm sao có thể coi như thế được, khi người Việt nước ngoài tại các quốc gia Tự do, không công nhận Đảng và Nhà Nước là tập đoàn cầm quyền, khi dưới mắt Người Việt Tự Do hải ngoại, Đảng Cộng sản là một kẻ cướp chính quyền, đă có nhiều nợ máu và nợ nước mắt đối với dân tộc Việt Nam từ Bắc chí Nam, từ Cuộc cải cách ruộng đất thập niên 50, đến chính sách tù đày cải tạo, kinh tế mới năm 1975, rồi đàn áp tôn giáo, giết hại đối lập đầu thiên niên kỷ thứ ba!

      a/ Mục đích tối hậu của Đảng khi coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là để “khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước.” Th́ ra thế. Níu kéo người Việt nước ngoài vào, chỉ v́ họ là “một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”(phần II của NQ36). Tại sao Đảng Cộng sản ưu việt với những đỉnh cao trí tuệ lại đánh giá cao “bọn người di tản” hơn cả 76 triệu người ở quốc nội?

      b/ Biện pháp khuyến khích của Đảng Cộng sản là: “phát hiện, bồi dưỡng những nhân tố tích cực, việc khen thưởng, động viên những người có thành tích”. Với suy nghĩ này, Bộ chính trị Cộng sản Việt Nam tự xem ḿnh là nơi ban phát ân huệ, vinh dự cho người Việt hải ngoại. Thành phần nào của Cộng Đồng Người Việt  hải ngoại sẽ ham thích việc khen thưởng của Đảng và Nhà Nước Việt Nam?

Khen như thế nào? và thưởng bao nhiêu? Khi chính bộ chính trị thú nhận: “... các cơ quan trực tiếp làm công tác về người Việt Nam ở nước ngoài chưa được kiện toàn đủ mạnh, kinh phí c̣n hạn chế”.

nhân tố tích cựclà những ai trong Cộng Đồng Người Việt  hải ngoại? Phải chăng là các tổ chức quyên góp tiền bạc đem về cứu trợ đủ thứ như Viet-Help, ICAN, như ĐVT giúp người mù, giúp bệnh hủi, lập viện mồ côi, cấp học bổng cho sinh viên nghèo Việt Nam, giúp dụng cụ máy móc học cụ cho các trường học, thuốc men, cho các bệnh viện, xe lăn cho thương binh như của Hanh Giao...? Viet-Help và ĐVT đă được Đảng và Nhà nước biểu dương về thành tích đóp góp cho đất nước. Hậu quả là Cộng Đồng hải ngoại lánh xa hai nhóm này v́ họ đă lợi dụng từ tâm của người Việt hải ngoại, để lập công với Cộng sản Việt Nam. Thực chất đa số nhóm người này không phải là nhân tố tích cực mà chỉ là những kẻ kinh doanh trên ḷng nhân đạo: tổ chức thiện nguyện quyên góp tiền bạc để giúp Việt Nam phần lớn đều là một loại cơ quan dịch vụ, v́ thường họ trích ra khoảng 40% số tiền quyên góp được để trả lương cho nhân viên điều hành (tương tự như cơ quan Hồng Thập tự quốc tế). Đa số trong nhóm người này là kẻ kinh doanh, quyên tiền về cho nhà Nước để lấy ḷng, mua sự dễ giải cho các dịch vụ kinh doanh của họ.

    Tại sao Nhà nước phải bỏ kinh phí để nuôi cán bộ ra nước ngoài làm công tác vận động và tuyên truyền trong cộng đồng Người Việt hải ngoại để quyến dụ về thăm, về hợp tác đầu tư...mà không khuyến khích nguồn vốn tư nhân hàng trăm triệu đô la trong nước và lo sửa đổi lề lối làm việc, cải tổ chính trị cho phù hợp với t́nh h́nh thế giới? Kết quả được bao nhiêu? “Việt kiều” nào dám về đầu tư lớn, khi luật pháp Việt Nam không rơ ràng được giải thích và áp dụng một cách tùy tiện theo chỉ đạo của đảng Cộng sản, khi hệ thống hành chánh quan liêu, giấy tờ phức tạp gây bao nhiêu rắc rối, phiền hà, làm mất bao nhiêu th́ giờ, tiền bạc. Thêm vào đó là nạn tham nhũng xẩy ra khắp mọi nơi từ cấp thấp đến cấp cao. (Nguyễn Văn Huy, “Xuất khẩu lao động...”, Thông Luận 178, tháng 2-2004)

      Từ 1999, các tập đoàn tư bản lớn của ngoại quốc đều không dám vào đầu tư, v́ rút kinh nghiệm lỗ lă của đầu thập niên 90, do Luật Đầu Tư của Việt Nam không đáp ứng được nguyên tắc tự do kinh doanh (Khách sạn Hilton-Hà Nội vốn 64 triệu, như bỏ không; Park Hyatt Saigon bỏ dở xây cất; khách sạn Dankia vốn 706 triệu đôla đ́nh hoăn...công ty Citroen-Peugeot của Pháp bỏ chạy qua Thái Lan, v́ sau khi, thuê được nhà cho Giám đốc Công ty ở, th́ lập tức ở đầu con đường vào nhà mọc lên một dăy quầy bán thuốc lá nhỏ (thực chất là công an Cộng sản trá h́nh để ḍ xét) và đă xẩy ra vụ công an ập vào nhà Giám đốc Citroen-Peugeot xét hộ khẩu và bắt giữ mấy người nữ khách đến thăm, làm chủ nhà xấu hổ. (Chu Tất Tiến, “Sau 25 Năm Nh́n Lại Việt Nam...” trang 21-22).

 

II.- Chủ Trương và Phương hướng công tác trong thời gian tới.-

Trong phần này NQ 36 đưa ra những phương thức và lư luận như sau:

1)      Thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở ư thức dân tộc: “Cơ sở của sự đoàn kết là ư thức dân tộc và ḷng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh.” Cộng sản Việt Nam luôn luôn sử dụng chiêu bài dân tộc để quyến dụ người Việt khắp nơi, nhưng chính sách của Cộng sản là phi dân tộc v́ nó là quốc tế vô sản. NQ 36 nhắc đến mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là “giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh.” Nhưng từ ngày phát động chiến tranh giành độc lập đến nay, nền độc lập của Cộng sản Việt Nam hầu như chưa có, bằng chứng là tập đoàn lănh đạo Hà Nội đang bị Trung quốc chi phối và áp lực nặng nề đến nỗi phải cắt đất, dâng biển cho họ để củng cố quyền bính. Theo tin báo chí, hôm 29-4-2004, trong lúc chuẩn bị ăn mừng chiếm được miền Nam th́ Hà Nội đă chính thức kư kết hiệp định dâng biển cho Trung Quốc qua h́nh thức các nghị định bổ sung trong Hiệp ước hợp tác về nghề cá với Bắc Kinh, làm nhân dân Việt khắp nơi bất b́nh. Về mục “làm cho dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh” th́ thật là xấu hổ cho quê hương Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Đại bộ phận nhân dân th́ càng ngày càng nghèo, công bằng xă hội hầu như không có, dân chủ th́ triệt tiêu và văn minh chỉ là khẩu hiệu. Thật vậy, với 29 năm Đảng Cộng sản Việt Nam cai trị, cái đất nước mà Hồ Chí Minh từng ca ngợi là “Rừng vàng biển bạc, đất ph́ nhiêu, các nước anh em giúp đỡ nhiều” đang càng ngày càng nghèo nàn và tụt hậu: năm 1999, Tổng sản lượng là 31 tỷ đô la Mỹ chia ra cho 80 triệu người, lợi tức trung b́nh của dân Việt là khoảng 385 đôla/một năm. Đây là chia đều trên lư thuyết, thực tế, đại đa số dân chỉ kiếm được dưới 100 đôla/ một năm. Gần một nửa số trẻ em Việt Nam bị suy dinh dưỡng. Hố ngăn cách giàu-nghèo tại Việt Nam ngày càng sâu. Công cuộc “Xóa Đói Giảm Nghèo” Nhà Nước đă làm suốt 29 năm vẫn không đi đến đâu. Quỹ  Tiền Tệ Quốc tế đă cho không gần 60 triệu để giúp xóa đói giảm nghèo, nhưng ngày 30-4-2004,  World Bank lại cho vay 222 triệu 500 ngàn đô la Mỹ để cải thiện môi trường và nâng cao mức sống của dân nghèo tại bốn thành phố Hải Pḥng, Nam Định, Sài G̣n và Cần Thơ. Chương tŕnh Xóa Đói Giảm Nghèo này sẽ tiếp tục cho đến năm 2012. Pháp và Nhật cũng cho chương tŕnh này hơn 400 triệu đô la. Theo cựu đại tá Cộng sản, Bùi Tín, th́ “trước kia người ta rất tự hào với chuyện Việt Nam là một nước đi đầu trong phong trào chống đế quốc thực dân, nhưng bây giờ lại lẹt đẹt là nước đứng cuối về đời sống của dân chúng mà lại đứng đầu về tham nhũng”.(Việt Long phỏng vấn, 30-4-2004). NQ36 hô hào: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai” Lại tuyên truyền lừa mị nữa. Nếu xóa bỏ định kiến, không phân biệt Bắc – Nam, thành phần th́ tại sao c̣n buộc người Việt nước ngoài phải khai một bản lư lịch dài tḥng khi xin Visa vào Việt Nam? Không phân biệt quá khứ, sao c̣n câu “lư do ra nước ngoài”? Làm sao tin cậy lẫn nhau được khi Nhà nước bố chí công an ch́m nổi khắp nơi để theo dơi “Việt kiều” cả khi đi vào nhà vệ sinh!

 

 

2)      NQ36 viết: - Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng  cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lư để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Khoản này không thể áp dụng cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn tại các nước Tự do v́ họ đă ra đi v́ không chấp nhận chủ nghĩa xă hội, v́ chống đảng Cộng sản, họ không tách rời dân tộc nhưng nhất định không hợp tác với Đảng Cộng sản. Cộng Đồng Người Việt tại Hoa Kỳ, Canada, Úc Châu và Tây Âu...không hề cần đến sự bảo vệ của nhà nước Cộng sản (nếu có thể) tại các quốc gia họ đang định cư. Về mặt Quốc tế Công pháp, Cộng sản Việt Nam không có một chút uy quyền nào đối với Cộng đồng Tỵ nạn Việt Nam, v́ họ không là công dân của Việt Nam Cộng sản. Bộ chính trị chỉ nên phổ biến NQ 36 này đến các quốc gia Đông Âu cũ và Nga, nơi đó đang có hàng trăm ngàn người do Nhà nước Cộng sản đưa đi, đang sống bất hợp pháp, đang coi thường luật pháp của các nước sở tại, đang bị Công an Cộng sản Việt Nam khống chế để đ̣i hối lộ, họ đang kèn cựa, tàn sát lẫn nhau trên đường buôn lậu.

3)      Điểm thứ ba của phần II này, Cộng sản Việt Nam chỉ thị phải kết hợp xây dựng cơ chế, chính sách, thông qua nhiều loại h́nh hoạt động để chi phối người Việt ở nước ngoài, tùy theo đối tượng, chỉ thị “chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố t́nh đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc” Đây là kế hoạch hù dọa các phong trào chống Cộng sản, đ̣i Tự do, Dân chủ, Nhân quyền của Người Việt  hải ngoại. Bộ chính trị Đảng Cộng sản phải biết rằng “Người Việt hải ngoại chống Cộng sản là v́ lợi ích chung của dân tộc” chứ không hề đi ngược. Bởi v́ Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lănh đạo, đă làm tay sai cho Đệ Tam Quốc tế Cộng sản, nhận nghĩa vụ trong Chiến Tranh Lạnh, lấy chiêu bài dân tộc để tàn hại nhân dân và đất nước hơn một phần ba thế kỷ, và cho đến nay, Cộng sản vẫn tiếp tục đàn áp tự do, dân chủ và tước đoạt quyền làm người của đại bộ phận dân tộc. Muốn cho dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc th́ phải giải trừ chế độ Cộng sản đi (như Liên Xô và Đông Âu đă làm).

4)      Cộng sản Việt Nam huy động toàn lực lượng từ trong và ngoài nước để đối phó với Người Việt  Hải Ngoại trong tương lai tới.

 

III.-Nhiệm Vụ chủ yếu.-

1)      Tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, duy tŕ quan hệ với quê hương.

Mục này không ăn nhập ǵ đến Cộng Đồng Người Việt  Tỵ Nạn, chống Cộng sản. V́ Nhà Nước không đủ tư cách và khả năng để giúp ổn định cuộc sống của người Việt ở Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Canada vân vân. Phần này Cộng sản Việt Nam ám chỉ người Việt tại Nga, Đức, Tiệp khắc, BaLan, Hungary, Rumania... V́ tại đây mới cần sự hỗ trợ của Đảng: Thông qua các hoạt động ngoại giao tích cực vận động chính quyền nước sở tại tạo thuận lợi cho kiều bào có điều kiện làm ăn sinh sống b́nh thường; chủ động tiến hành đàm phán và kư kết các thỏa thuận cần thiết với các nước, trong đó có các hiệp định lănh sự, hiệp định tư pháp, bảo vệ lợi ích chính đáng của bà con, chống các biểu hiện kỳ thị, các hành động chống lại người Việt Nam ở nước ngoài.

2)      Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đăi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có tŕnh độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lư, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của nước nhà.

3)      Coi trọng các h́nh thức đầu tư, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ do người Việt Nam ở nước ngoài trực tiếp thực hiện hoặc thông qua người thân trong nước thực hiện. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người Việt Nam ở nước ngoài làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng kênh tiêu thụ hàng hóa Việt Nam, các quan hệ hợp tác và đầu tư với các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân nước ngoài. ,

4)       khuyến khích những hoạt động hướng về Tổ quốc của bà con, nhất là của thế hệ trẻ trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với pháp luật và phong tục tập quán nước sở tại. Hỗ trợ các dự án của người Việt Nam ở nước ngoài nhằm mục tiêu trên. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả với những người c̣n có định kiến, mặc cảm với Nhà nước và chế độ ta.

5)      Tích cực đầu tư cho chương tŕnh dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào, cải tiến các chương tŕnh dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền h́nh, đài phát thanh và qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người Việt Nam ở nước ngoài.

Đây là điều bộc lộ tham vọng ngông cuồng và thái độ trịch thượng của Cộng sản Việt Nam đối với Người Việt  Hải Ngoại. Cộng sản sẽ đâu tư dạy tiếng Việt cho người Việt ở nước ngoài, sẽ xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt, dạy trên truyền h́nh, phát thanh, internet, cử giáo viên tới dạy, tổ chức trại hè nói tiếng Việt, cho các đoàn nghệ thuật ra biểu diễn phục vụ, tổ chức giao lưu văn hóa, du lịch về cội nguồn. Bộ chính trị Cộng sản làm như Cộng Đồng Người Việt hải ngoại đă mất hết bản sắc dân tộc, mất cả tiếng Việt và quên cội nguồn. Phải chờ đến 29 năm sau, Đảng mới nghĩ tới đầu tư dạy tiếng Việt cho người Việt hải ngoại, Bộ chính trị đă thật dốt về Cộng Đồng hải ngoại, không biết họ có bao nhiêu trường dạy Việt Ngữ, bao nhiêu sách giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của con em họ. Người Việt tỵ nạn chắc chắn sẽ không bao giờ chấp nhận sách giáo khoa rặt mùi tuyên truyền của Đảng, v́ con em Người Việt hải ngoại không thể là cháu ngoan của Bác Hồ dâm ô, tàn ác đang bị thế giới bóc trần lớp vỏ huyền thoại mà Cộng sản đă phủ lên.

6)      Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người  Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng t́nh h́nh đất nước và chính sách của Ịảng và Nhà nước. đầu tư cho các chương tŕnh dành cho người Việt Nam ở nước ngoài của đài phát thanh, truyền h́nh.

 Khi đưa ra nhiệm vụ này, Bộ chính trị Cộng sản quên rằng chương tŕnh tuyên truyền VTV4 của họ đă bị hoàn toàn thất bại tại Úc châu và đang bị tẩy chay tại các Cộng Đồng Người Việt  ở Âu châu. Bày đặt ra chỉ tốn phí của nhân dân một số tiền lớn hàng chục triệu đô la mà thôi, v́ lẽ tại các quốc gia tự do lượng thông tin rất nhanh chóng và đầy đủ, Đảng Cộng sản không dễ ǵ tuyên truyền lừa mị được. Về việc Đảng hỗ trợ ra báo, mở phát thanh, truyền h́nh ở ngoài nước th́ chỉ dành cho bọn cơ hội và nằm vùng thủ lợi mà thôi, chứ chẳng quyến dụ được những người Việt thành công và có lập trường chống cộng, đ̣i dân chủ tự do đâu.

7)      Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài.-

 Đến đây th́ Đảng thật quá quắt, tư đặt ḿnh vào địa vị lănh đạo người Việt hải ngoại, có quyền ban phát vinh dự và ân huệ cho người Việt hải ngoại. Dĩ nhiên là cũng sẽ có một số người do bọn cán bộ nằm vùng và thâm nhập của Đảng “nuôi nấng, đào tạo” đứng ra lập công lănh thưởng, được cho về Việt Nam hưởng thụ lạc thú... Nhưng người tỵ nạn chân chính th́ sẽ không bao giờ thấy vinh dự  về phần thưởng của chế độ Cộng sản, nhất là Cộng sản Việt Nam. Những tên được Đảng Cộng sản khen thưởng, biểu dương sẽ trở thành những con chó ghẻ bị xua duỗi trong Cộng Đồng Người Việt  hải ngoại. Đảng đừng nằm mơ nữa mà tổn hại tiền của nhân dân.

     Theo NQ36, trong tương lai, Cộng sản sẽ tăng cường tuyên vận, sẽ lập nhiều Hội đoàn và tài trợ để gài bẫy người Việt ham vui, ham danh. Tại quốc nội th́ lập Hội thân nhân Việt kiều để xui giục ḅn rút tiền của hải ngoại, các nơi trong nước có nhiều người Việt định cư ở nước ngoài phải “ có bộ phận giúp cơ quan lănh đạo trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Bổ sung kinh phí cho công tác này.” Tức là phải có một tổ chức ḍ xét, t́m ṭi về thân nhân ở nước ngoài rồi cung cấp tin tức, địa chỉ và tiền bạc cho lănh đạo nhà nước trong công tác đối với người Việt hải ngoại.

 

IV.-Tổ chức thực hiện.-

      Trong phần này, NQ36 chỉ ra các Cơ quan có nhiệm vụ thi hành Nghị quyết. Tất cả có 4 tổ chức chính, bao gồm toàn lực của Đảng và chính phủ, từ Bộ Ngoại giao đến Ban cán sự Đảng, các Ban Ngành liên quan, từ Ủy Ban Trung Ương MT TQ Việt Nam đến Ban cán sự Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội, các tỉnh thành ủy. Ban Bí thu tổ chức kiểm tra định kỳ nghe báo cáo t́nh h́nh công tác đối với người Việt ở nước ngoài.

 

    Như vậy, Đảng và Nhà Nước Cộng sản đă đặt Cộng Đồng Người Việt  Hải Ngoại vào một vị thế rất quan trong và dốc toàn lực để đối phó, không ngại gia tăng kinh phí. Phải chăng Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng trước nguy cơ của “Diễn Biến Ḥa B́nh” tại quốc nội. Thực chất của chiến lược gọi là “Diễn Biến Ḥa B́nh” là nhằm “lật đổ chủ nghĩa xă hội và các chế độ tiến bộ khác đi theo con đường xă hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc, bằng cách phá hoại, làm mục ruỗng từ bên ở trong các nước này. Chúng thực hiện chiến lược bằng nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc, thực hiện một cách từ từ, lặng lẽ, thông qua các hoạt động kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, đối ngoại... để tạo ra sự tự diễn tiến ở mỗi nước.”(công tŕnh nghiên cứu khoa học nhóm chủ biên PGS, TS Vũ Hiền, và PGS,TS Trần Quang Nghiệp, Hà Nội, trang 8-9) Họ đă ghi nhận rằng: “Các thế lực phản động quốc tế lợi dụng mọi t́nh h́nh thế giới và t́nh h́nh cụ thể của mọi nước – dưới danh nghĩa “dân chủ”, “tự do”, “nhân quyền” – để tiến hành thẩm thấu, xâm nhập vào các lănh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xă hội, dân tộc, tôn giáo ở các nước xă hội chủ nghĩa, ḥng mua chuộc, lôi kéo những phần tử bất đồng chính kiến, nuôi dưỡng tư tưởng sùng bái phương Tây một cách mù quáng. Từ đó, chúng truyền bá mô h́nh chính trị, mô h́nh kinh tế, quan niệm giá trị, tư tưởng, lối sống của tư bản chủ nghĩa phương Tây, khiến cho các nước xă hội chủ nghĩa từng bước ngả theo hướng tư hữu hóa về kinh tế, đa nguyên hóa về chính trị, tự do hóa theo khuynh hướng tư sản. Sự chuyển hóa được thực hiện dần dần như vậy, cho tới khi nó tạo ra sự đổi sắc thay màu, khiến cho các nước xă hội chủ nghĩa từ bỏ con đường của ḿnh, chuyển sang con đường tư bản chủ nghĩa, trở thành thành viên của thế giới tư bản do Mỹ cầm đầu.”

“...một cách khái quát nội dung “diễn biến ḥa b́nh”, đó là những hoạt động của bọb đế quốc phản động hướng tác động vào bên trong và thực hiện cuộc vận động chống chủ nghĩa xă hội trong ḷng các nước xă hội chủ nghĩa, để làm sụp đổ chủ nghĩa xă hội từ bên trong.

“Chiến lược “diễn biến ḥa b́nh”không phải hoàn toàn mới, nhưng nó chưa hề tỏ ra lạc hậu.”

 “Báo Chí Trong Đấu Tranh Chống “DIỄN BIẾN H̉A B̀NH” –Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội-2000, [Lưu Hành Nội Bộ], trang 9-10).

 

     Các nhà nghiên cứu về Diễn Biến Ḥa B́nh của Cộng sản Việt Nam công nhận rằng “Chiến lược “diễn biến ḥa b́nh”không phải hoàn toàn mới, nhưng nó chưa hề tỏ ra lạc hậu.” Nghĩa là nó vẫn c̣n tác dụng hữu hiệu để triệt hạ các nước xă hội chủ nghĩa c̣n lại, trong đó có Việt Nam.

Không thể đối phó với các cuộc tấn công của “diễn biến ḥa b́nh” tại quốc nội, Đảng liền t́m cách hướng sự chú ư của cả nước ra hải ngoại để tự trấn an.*/* NC

 

( 1442004 )

Nguyễn  Châu